Giải mật chiến tranh điện tử Mỹ ở Việt Nam (kỳ I)
Trang thiết bị khí tài điện tử được triển khai trên mọi phương tiện tác chiến, bao gồm từ không quân, không quân hải quân, bộ binh, trên tất cả các không gian tác chiến, từ trên không, trên mặt đất và trên mặt nước...
Sự xuất hiện trong lực lượng vũ trang và hạm đội các trang thiết bị điện tử (trang thiết bị thông tin liên lạc, các đài radar, các thiết bị dẫn đường, định vị, trang thiết bị điều khiển hỏa lực và các phương tiện tác chiến khác…), các hoạt động và khả năng của trinh sát, tình báo điện tử trong mọi lĩnh vực cũng như các hoạt động đánh lừa, gây nhiễu loạn hoặc chế áp ngày càng được tăng cường cả về chiều rộng và chiều sâu.
Các hành động công kích hay phòng ngự trong lĩnh vực điện tử có ảnh hưởng mang tính quyết định đến hiệu quả tác chiến trên chiến trường. Ngày này, trong lĩnh vực tác chiến không gian ảo ngày càng hoàn thiện hơn các phương pháp và trang thiết bị, khí tài nhằm tăng cường hay bảo vệ các hoạt động tác chiến của các lực lượng trinh sát điện tử và chế áp điện tử đối phương. Trong lĩnh vực radar – điện tử, thông tin và truyền thông hàng ngày (thời bình và thời chiến) đang diễn cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt, cuộc đấu tranh trong không gian điện tử được gọi là “chiến tranh điện tử” các hoạt động nhằm dành quyền thống trị trong không gian electron được gọi là “tác chiến điện tử”.
Các cường quốc quân sự thế giới phát triển mạnh các phương pháp và các phương tiện, khí tài trang bị trinh sát điện tử và chế áp điện tử nhằm mục đích tấn công chiếm đoạt thông tin và gây tổn thất nặng nề cho các phương tiện, vũ khí, khí tài của đối phương, bao gồm các phương tiện điện tử. Các lực lượng đối kháng cũng sử dụng các phương tiện, vũ khí và trang thiết bị khác nhau nhằm chống lại các hoạt động công kích điện tử của đối phương. Cuộc đấu tranh này được mang thuật ngữ “Chiến tranh điện tử”. Như vậy, chiến tranh điện tử là “ tập hợp các hoạt động tác chiến nhằm giảm thiểu tối đa hiệu quả sử dụng không gian điện từ để thực hiện nhiệm vụ chiến đấu của đối phương đồng thời đảm bảo hoạt động hiệu quả các trang thiết bị, khí tài điện tử của phía bên mình” trích điều lệ tác chiến của quân đội Mỹ. Theo quan điểm của Bộ tổng tham mưu liên quân Mỹ, các hoạt động tác chiến được thực hiện trong “chiến tranh điện tử” là:
- Trinh sát điện tử, nắm bắt thông tin, phát hiện mục tiêu và chỉ thị dẫn đường các lực lượng hoặc hỏa lực tiêu diệt mục tiêu.
- Làm đứt đoạn và làm rối loạn các hoạt động điều hành lực lượng chiến đấu và vũ khí trang bị đối phương;
- Giảm hiệu quả trinh sát của địch và hiệu quả sử dụng vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh;
- Duy trì và đảm bảo khả năng hoạt động ổn định của các trang thiết bị, khí tài điều hành tác chiến và điều khiển hỏa lực.
Như vậy: “Tác chiến điện tử” được hiểu là tập hợp tất cả những hành động theo mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ, vị trí và thời gian cùng với các lực lượng tham gia chiến đấu phát hiện được hệ thống và các phương tiện, khí tài điều hành các đơn vị chiến đấu và các phương tiện tác chiến của đối phương, thực hiện các đòn tiến công tiêu diệt các tranh thiết bị, khí tài điều hành tác chiến và điều khiển hỏa lực, chiếm đoạt thông tin và chế áp thông tin đối phương, gây nhiễu loạn và mất khả năng hoạt động của hệ thống điều hành binh lực và điều khiển hỏa lực. Cùng lúc bảo vệ các trang thiết bị, khí tài của hệ thống điều hành tác chiến và điều khiển hỏa lực quân ta, ngăn chặn mọi khả năng trinh sát điện tử, dẫn đường hỏa lực và chỉ thị mục tiêu của đối phương.
Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Tác chiến điện tử (TCĐT):
1- Tình báo, trinh sát, cảnh báo sớm phát hiện mục tiêu đối phương, thu thập thông tin, chỉ thị dẫn đường lực lượng hoặc vũ khí, phương tiện chiến đấu tiêu diệt mục tiêu.
2- Chế áp điện tử - đánh lừa, gây nhiễu , phá hủy hoặc làm nhiễu loạn, đứt đoạn hệ thống điều hành tác chiến và điều khiển hỏa lực đối phương.
Các cuộc chiến tranh hiện đại từ sau đại chiến thế giới lần thứ II, cùng với những diễn biến căng thẳng của chiến tranh lạnh mà trong cuộc đối đầu giữa hai hệ tư tưởng, cả hai phía đã tiến hành một cuộc chiến tranh điện tử - thông tin với cường độ rất cao, huy động hầu hết những thành tựu khoa học công nghệ đương thời vào cuộc chiến hiện đại nay. Những tổn thất cho cả hai bên hầu như không được tuyên bố, nhưng kết quả cuối cùng hầu như toàn thế giới đều đã rõ ràng. Cũng trong thời gian này, đã có nhiều cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh khu vực xảy ra trên toàn thế giới, mà trong đó, chiến tranh điện tử đóng vai trò trọng yếu trong mọi hoạt động của chiến trường. Cuộc chiến tranh điện tử phức tạp nhất, đa dạng nhất và cũng là cuộc đối đầu không cân sức nhất giữa lực lượng tham chiến hiện đại nhất thế giới và lực lượng vũ trang nhân dân non trẻ nhất tại Việt Nam.
Cuộc chiến trên đường Trường Sơn và chiến trường miền Nam
Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là cuộc đối đầu tàn khốc giữa ý chí của một dân tộc chống ngoại xâm – thống nhất đất nước và một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất trên thế giới. Để phá hoại phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, tiêu diệt lực lượng vũ trang nhân dân non trẻ, đồng thời ngăn chặn con đường vận chuyển vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu, binh lực và cơ sở vật chất từ miền Bắc vào Miền Nam, quân đội Mỹ đã sử dụng những phương tiện trinh sát điện tử hiện đại chưa từng có với những quy mô sử dụng cũng chưa từng có trong lịch sử chiến tranh.
Trang thiết bị khí tài điện tử được triển khai trên mọi phương tiện tác chiến, bao gồm từ không quân, không quân hải quân, bộ binh đến những người lính cuối cùng, trên tất cả các không gian tác chiến, từ trên không, trên mặt đất và trên mặt nước. Trinh sát điện tử trong chiến tranh ở Việt Nam đã phát triển lên đến đỉnh cao nhất của khoa học công nghệ cả về tốc độ nghiên cứu cũng như tốc độ ứng dụng. Những hoạt động trinh sát điện tử diễn ra rộng rãi cả trên hai miền Nam Bắc Việt Nam, một trong những chiến trường dữ dội nhất và cũng tàn bạo nhất là trên tuyến đường Trường Sơn “đường mòn Hồ Chí Minh” anh hùng.
Tác chiến điện tử trên đường mòn “Hồ Chí Minh” chiến dịch Igloo Whate
Giai đoạn những năm 1960-x đến 1970-x, những cuộc tấn công liên tiếp của Quân giải phóng đã đập tan huyền thoại sức mạnh quân sự Mỹ, lực lượng vũ trang miền Nam càng ngày càng lớn mạnh. Để ngăn chặn những đoàn quân và những chuyến hàng vận tải vào Nam dọc tuyến Trường Sơn, người Mỹ đã triển khai một chiến dịch tác chiến điện tử rộng khắp trên toàn bộ tuyến đường Trường Sơn. Bước đầu tiên, để phát hiện được những đoàn xe và các đơn vị hành quân vào Nam, không quân hải quân Mỹ sử dụng các sensors thu âm, được dùng trong các phao thủy âm chống ngầm.
Những chiếc sensor thu âm "Akvabuy" có chiều dài 91 cm đường kính 12 cm và nặng 12 kg. Các cảm biến âm thanh này được ném xuống từ máy bay bằng dù ngụy trang xuống các cánh rừng nhiệt đới. Dù sẽ treo lơ lửng các khí tài thu âm này trên cây, thu âm thanh tiếng động và truyền về trung tâm xử lý thông tin của Hải quân Mỹ, bình điện ắc quy cho phép nuôi khí tài trong 30 – 45 ngày. Nhưng do dù bay thường không định hướng nên các thiết bị này rơi tản mát, hiệu quả trinh sát rất thấp. Chương trình trinh sát điện tử được phát triển tiếp theo với phương án sử dụng rộng rãi các sensor được đặt mật danh là Igloo White nhưng nổi tiếng với tên gọi thông thường là Hàng rào điện tử McNamara, sensor được nâng cấp và cải tiến là thiết bị tổ hợp đo địa chấn, từ trường và tiếng động "ADSID" (Air Delivered Seismic Intrusion Detector) - Cây nhiệt đới, có khối lượng 11 kg được ném xuống bằng dù định hướng. Các Cây nhiệt đới (ADSID) này cắm sâu xuống đất, xòe các ăn ten thu tín hiệu được sơn mầu ngụy trang. Thế hệ thứ 3 của “ADSID” là các cây nhiệt đới thu cả âm thanh, địa chấn và từ trường có khối lượng đến 17 kg. Micro được tự động bật lên khi có từ trường hoặc địa chấn tương đương xe ô tô chạy, từ đó đã tăng được thời gian bình điện ắc quy lên đến 90 ngày liên tục truyền tín hiệu.
Chương trình " Igloo White "hoặc “Hàng rào điện tử McNamara” ban đầu được nghiên cứu triển khai dọc khu phi quân sự đến tận biên giới Việt Nam – Lào một hệ thống hàng rào điện tử dày đặc bao gồm tất cả các loại radars, cảm biến điện từ, âm thanh và nhiệt độ kết hợp với hàng rào dây thép gai, các trận địa mìn và các cụm hỏa điểm dày đặc. Hàng rào điện tử dưới sự chi viện mạnh mẽ của các căn cứ và lực lượng quân đội Mỹ và Sài Gòn được cơ giới hóa và trực thặng vận cấp độ cao.
Dự án hàng tỷ USD này được hy vọng có thể chặn đứng sự chi viện của miền Bắc XHCN cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Miền Nam Việt Nam.
Hệ thống các sensors trinh sát, bãi mìn và hàng rào dây thép gại trong “Hàng rào điện tử McNamara”.
Chương trình này bắt đầu từ năm 1966 khi tình hình cách mạng Miền Nam phát triển mạnh, với chi phí lên tới 2 tỷ USD đã nhanh chóng bị hủy bỏ do sự vô dụng trong việc ngăn chặn các lực lượng chi viện Miền Bắc vào miền Nam. Người Mỹ đã phát hiện ra những tuyến đường vận chuyển của binh đoàn 559 thông qua Lào và Campuchia. Điều này gây sốc nặng nề cho Bộ tham mưu liên quân Mỹ khi họ nhận được những bức ảnh chụp và nghe được âm thanh cơ giới từ những đoạn đường dưới tán cây rừng. Buộc người Mỹ phải có kế hoạch khẩn cấp đối phó.
Sơ đồ hệ thống chống vận tải cơ giới và hành quân chi viện Miền Nam.
Sự phát triển và mở rộng con đường Trường Sơn với mật độ xe cơ giới và binh lực lớn đe dọa một sự thảm bại đến gần. Quân đội Mỹ phải tiến hành tiếp theo chiến dịch tác chiến điện tử quy mô dọc tuyến đường Hồ Chí Minh, chiến dịch đánh phá tuyến đường giao thông anh hùng có tên là Operation Commando Hunt do lực lượng Hải quân hạm đội 7 của Mỹ kết hợp với tập đoàn không quân Hải quân số 77 tiến hành từ 11.11.1968 đến 29.3.1972 và một gian đoạn tiếp theo cho đến khi Mỹ quyết định rút quân khỏi Việt Nam, trong chiến dịch này đã sử dụng rộng rãi các thiết bị trinh sát điện tử như ADSID với nhiều chủng loại khác nhau như:
Air Delivered Seismic Intrusion Detector (ADSID) Thiết bị thám sát địa chấn thả từ trên không.
ACOUBOUY; Acoustic Seismic Intrusion Detector (ACOUSID)Thiết bị thám sát âm thanh; .
Fighter Air-Delivered Seismic Intrusion Detector (FADSID)Thiết bị thám sát âm thanh thả bằng máy bay phản lực; .
Helicopter-emplaced Seismic Intrusion Detector (HELOSID). Thiết bị dò tìm âm thanh của trực thăng; .
Hand-emplaced Seismic Intrusion Detector (HANDSID) Thiết bị dò tìm âm thanh, địa chấn của thám báo; .
Hai loại Cây nhiệt đới ADSID II and ACOUSID III; .
Vùng tác chiến điện tử và không kích đường Trường Sơn bằng không quân..
Thời gian đầu tiên, những cảm biến kiểu Cây nhiệt đới này được thả xuống các khu vực đường vận tải bằng máy bay hải quân OP -2 Neptune, do cấu trúc nặng nề và tốc độ bay chậm, hay bị lực lượng phòng không mặt đất của bộ đội Trường Sơn bắn rơi.
Các cảm biến này được rải bằng nhiều loại phương tiện khác nhau như máy bay phản lực, máy bay trực thăng, một số các loại cảm biến khác còn do lực lượng thám báo Mỹ (SOG). Số lượng các cảm biến điện từ trường và âm thanh tính chỉ riêng năm 1969 là 5.000 chiếc, đến năm 1972, số lượng lên đến 40.000 chiếc được rải xuống.
Sơ đồ tác chiến điện tử khu vực Khe Sanh – A shau, A Lưới. Các điểm chấm là tuyến rải các sensors.
Máy bay tác chiến điện tử EC -121R.
Hệ thống radars thu tín hiệu chuyển tải về trung tâm tác chiến điện tử ICS ở Thái Lan.
Trung tâm tác chiến điện tử chống thâm nhập ICS ở Thái Lan.
Các sensors được rải xuống các tuyến đường vận tải Trường Sơn cũng chỉ là một phần công việc. Sau khi các sensors được rải và kích hoạt, thông tin từ các sensors được truyền tải qua các máy bay tác chiến điện tử của hãng Lockheed EC-121R và hãng Beach "Deboneyrs" cho máy bay EU-121 "Paiva Eagle" về các trung tâm chỉ huy, trong đó có trung tâm tác chiến điện tử Mỹ đặt tại Trung tâm Giám sát Thâm nhập (Infiltration Surveillance Center - ICS) ở Thái Lan, sử dụng máy tính IBM 360 – 65.
Từ những thông tin thu thập được, người Mỹ xác định những tuyến đường vận tải, kho tàng và khu vực tập trung xe máy kỹ thuật, từ đó ra quyết định công kích đường không. Do độ sai lệch trong xác định vị trí các cảm biến rất lớn (khoảng vài trăm mét), không quân Mỹ thường tiến hành các đợt không kích ồ ạt với số lượng bom đạn không hạn chế. Trong mỗi mùa khô vận tải, mỗi ngày địch sử dụng từ gần 200 đên 400 lần không kích bằng máy bay phản lực, 10 – 12 các chuyến bay tuần thám và tấn công các đoàn xe vận tải AC-130, khoảng từ 20 đến 30 lần không kích bằng máy bay ném bom chiến lược B-52.
(còn nữa)
Theo Trịnh Thái Bằng
Tiền phong
Sự xuất hiện trong lực lượng vũ trang và hạm đội các trang thiết bị điện tử (trang thiết bị thông tin liên lạc, các đài radar, các thiết bị dẫn đường, định vị, trang thiết bị điều khiển hỏa lực và các phương tiện tác chiến khác…), các hoạt động và khả năng của trinh sát, tình báo điện tử trong mọi lĩnh vực cũng như các hoạt động đánh lừa, gây nhiễu loạn hoặc chế áp ngày càng được tăng cường cả về chiều rộng và chiều sâu.
Các hành động công kích hay phòng ngự trong lĩnh vực điện tử có ảnh hưởng mang tính quyết định đến hiệu quả tác chiến trên chiến trường. Ngày này, trong lĩnh vực tác chiến không gian ảo ngày càng hoàn thiện hơn các phương pháp và trang thiết bị, khí tài nhằm tăng cường hay bảo vệ các hoạt động tác chiến của các lực lượng trinh sát điện tử và chế áp điện tử đối phương. Trong lĩnh vực radar – điện tử, thông tin và truyền thông hàng ngày (thời bình và thời chiến) đang diễn cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt, cuộc đấu tranh trong không gian điện tử được gọi là “chiến tranh điện tử” các hoạt động nhằm dành quyền thống trị trong không gian electron được gọi là “tác chiến điện tử”.
Các cường quốc quân sự thế giới phát triển mạnh các phương pháp và các phương tiện, khí tài trang bị trinh sát điện tử và chế áp điện tử nhằm mục đích tấn công chiếm đoạt thông tin và gây tổn thất nặng nề cho các phương tiện, vũ khí, khí tài của đối phương, bao gồm các phương tiện điện tử. Các lực lượng đối kháng cũng sử dụng các phương tiện, vũ khí và trang thiết bị khác nhau nhằm chống lại các hoạt động công kích điện tử của đối phương. Cuộc đấu tranh này được mang thuật ngữ “Chiến tranh điện tử”. Như vậy, chiến tranh điện tử là “ tập hợp các hoạt động tác chiến nhằm giảm thiểu tối đa hiệu quả sử dụng không gian điện từ để thực hiện nhiệm vụ chiến đấu của đối phương đồng thời đảm bảo hoạt động hiệu quả các trang thiết bị, khí tài điện tử của phía bên mình” trích điều lệ tác chiến của quân đội Mỹ. Theo quan điểm của Bộ tổng tham mưu liên quân Mỹ, các hoạt động tác chiến được thực hiện trong “chiến tranh điện tử” là:
- Trinh sát điện tử, nắm bắt thông tin, phát hiện mục tiêu và chỉ thị dẫn đường các lực lượng hoặc hỏa lực tiêu diệt mục tiêu.
- Làm đứt đoạn và làm rối loạn các hoạt động điều hành lực lượng chiến đấu và vũ khí trang bị đối phương;
- Giảm hiệu quả trinh sát của địch và hiệu quả sử dụng vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh;
- Duy trì và đảm bảo khả năng hoạt động ổn định của các trang thiết bị, khí tài điều hành tác chiến và điều khiển hỏa lực.
Như vậy: “Tác chiến điện tử” được hiểu là tập hợp tất cả những hành động theo mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ, vị trí và thời gian cùng với các lực lượng tham gia chiến đấu phát hiện được hệ thống và các phương tiện, khí tài điều hành các đơn vị chiến đấu và các phương tiện tác chiến của đối phương, thực hiện các đòn tiến công tiêu diệt các tranh thiết bị, khí tài điều hành tác chiến và điều khiển hỏa lực, chiếm đoạt thông tin và chế áp thông tin đối phương, gây nhiễu loạn và mất khả năng hoạt động của hệ thống điều hành binh lực và điều khiển hỏa lực. Cùng lúc bảo vệ các trang thiết bị, khí tài của hệ thống điều hành tác chiến và điều khiển hỏa lực quân ta, ngăn chặn mọi khả năng trinh sát điện tử, dẫn đường hỏa lực và chỉ thị mục tiêu của đối phương.
Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Tác chiến điện tử (TCĐT):
1- Tình báo, trinh sát, cảnh báo sớm phát hiện mục tiêu đối phương, thu thập thông tin, chỉ thị dẫn đường lực lượng hoặc vũ khí, phương tiện chiến đấu tiêu diệt mục tiêu.
2- Chế áp điện tử - đánh lừa, gây nhiễu , phá hủy hoặc làm nhiễu loạn, đứt đoạn hệ thống điều hành tác chiến và điều khiển hỏa lực đối phương.
Các cuộc chiến tranh hiện đại từ sau đại chiến thế giới lần thứ II, cùng với những diễn biến căng thẳng của chiến tranh lạnh mà trong cuộc đối đầu giữa hai hệ tư tưởng, cả hai phía đã tiến hành một cuộc chiến tranh điện tử - thông tin với cường độ rất cao, huy động hầu hết những thành tựu khoa học công nghệ đương thời vào cuộc chiến hiện đại nay. Những tổn thất cho cả hai bên hầu như không được tuyên bố, nhưng kết quả cuối cùng hầu như toàn thế giới đều đã rõ ràng. Cũng trong thời gian này, đã có nhiều cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh khu vực xảy ra trên toàn thế giới, mà trong đó, chiến tranh điện tử đóng vai trò trọng yếu trong mọi hoạt động của chiến trường. Cuộc chiến tranh điện tử phức tạp nhất, đa dạng nhất và cũng là cuộc đối đầu không cân sức nhất giữa lực lượng tham chiến hiện đại nhất thế giới và lực lượng vũ trang nhân dân non trẻ nhất tại Việt Nam.
Cuộc chiến trên đường Trường Sơn và chiến trường miền Nam
Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là cuộc đối đầu tàn khốc giữa ý chí của một dân tộc chống ngoại xâm – thống nhất đất nước và một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất trên thế giới. Để phá hoại phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, tiêu diệt lực lượng vũ trang nhân dân non trẻ, đồng thời ngăn chặn con đường vận chuyển vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu, binh lực và cơ sở vật chất từ miền Bắc vào Miền Nam, quân đội Mỹ đã sử dụng những phương tiện trinh sát điện tử hiện đại chưa từng có với những quy mô sử dụng cũng chưa từng có trong lịch sử chiến tranh.
Trang thiết bị khí tài điện tử được triển khai trên mọi phương tiện tác chiến, bao gồm từ không quân, không quân hải quân, bộ binh đến những người lính cuối cùng, trên tất cả các không gian tác chiến, từ trên không, trên mặt đất và trên mặt nước. Trinh sát điện tử trong chiến tranh ở Việt Nam đã phát triển lên đến đỉnh cao nhất của khoa học công nghệ cả về tốc độ nghiên cứu cũng như tốc độ ứng dụng. Những hoạt động trinh sát điện tử diễn ra rộng rãi cả trên hai miền Nam Bắc Việt Nam, một trong những chiến trường dữ dội nhất và cũng tàn bạo nhất là trên tuyến đường Trường Sơn “đường mòn Hồ Chí Minh” anh hùng.
Tác chiến điện tử trên đường mòn “Hồ Chí Minh” chiến dịch Igloo Whate
Giai đoạn những năm 1960-x đến 1970-x, những cuộc tấn công liên tiếp của Quân giải phóng đã đập tan huyền thoại sức mạnh quân sự Mỹ, lực lượng vũ trang miền Nam càng ngày càng lớn mạnh. Để ngăn chặn những đoàn quân và những chuyến hàng vận tải vào Nam dọc tuyến Trường Sơn, người Mỹ đã triển khai một chiến dịch tác chiến điện tử rộng khắp trên toàn bộ tuyến đường Trường Sơn. Bước đầu tiên, để phát hiện được những đoàn xe và các đơn vị hành quân vào Nam, không quân hải quân Mỹ sử dụng các sensors thu âm, được dùng trong các phao thủy âm chống ngầm.
Những chiếc sensor thu âm "Akvabuy" có chiều dài 91 cm đường kính 12 cm và nặng 12 kg. Các cảm biến âm thanh này được ném xuống từ máy bay bằng dù ngụy trang xuống các cánh rừng nhiệt đới. Dù sẽ treo lơ lửng các khí tài thu âm này trên cây, thu âm thanh tiếng động và truyền về trung tâm xử lý thông tin của Hải quân Mỹ, bình điện ắc quy cho phép nuôi khí tài trong 30 – 45 ngày. Nhưng do dù bay thường không định hướng nên các thiết bị này rơi tản mát, hiệu quả trinh sát rất thấp. Chương trình trinh sát điện tử được phát triển tiếp theo với phương án sử dụng rộng rãi các sensor được đặt mật danh là Igloo White nhưng nổi tiếng với tên gọi thông thường là Hàng rào điện tử McNamara, sensor được nâng cấp và cải tiến là thiết bị tổ hợp đo địa chấn, từ trường và tiếng động "ADSID" (Air Delivered Seismic Intrusion Detector) - Cây nhiệt đới, có khối lượng 11 kg được ném xuống bằng dù định hướng. Các Cây nhiệt đới (ADSID) này cắm sâu xuống đất, xòe các ăn ten thu tín hiệu được sơn mầu ngụy trang. Thế hệ thứ 3 của “ADSID” là các cây nhiệt đới thu cả âm thanh, địa chấn và từ trường có khối lượng đến 17 kg. Micro được tự động bật lên khi có từ trường hoặc địa chấn tương đương xe ô tô chạy, từ đó đã tăng được thời gian bình điện ắc quy lên đến 90 ngày liên tục truyền tín hiệu.
Chương trình " Igloo White "hoặc “Hàng rào điện tử McNamara” ban đầu được nghiên cứu triển khai dọc khu phi quân sự đến tận biên giới Việt Nam – Lào một hệ thống hàng rào điện tử dày đặc bao gồm tất cả các loại radars, cảm biến điện từ, âm thanh và nhiệt độ kết hợp với hàng rào dây thép gai, các trận địa mìn và các cụm hỏa điểm dày đặc. Hàng rào điện tử dưới sự chi viện mạnh mẽ của các căn cứ và lực lượng quân đội Mỹ và Sài Gòn được cơ giới hóa và trực thặng vận cấp độ cao.
Dự án hàng tỷ USD này được hy vọng có thể chặn đứng sự chi viện của miền Bắc XHCN cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Miền Nam Việt Nam.
Hệ thống các sensors trinh sát, bãi mìn và hàng rào dây thép gại trong “Hàng rào điện tử McNamara”.
Chương trình này bắt đầu từ năm 1966 khi tình hình cách mạng Miền Nam phát triển mạnh, với chi phí lên tới 2 tỷ USD đã nhanh chóng bị hủy bỏ do sự vô dụng trong việc ngăn chặn các lực lượng chi viện Miền Bắc vào miền Nam. Người Mỹ đã phát hiện ra những tuyến đường vận chuyển của binh đoàn 559 thông qua Lào và Campuchia. Điều này gây sốc nặng nề cho Bộ tham mưu liên quân Mỹ khi họ nhận được những bức ảnh chụp và nghe được âm thanh cơ giới từ những đoạn đường dưới tán cây rừng. Buộc người Mỹ phải có kế hoạch khẩn cấp đối phó.
Sơ đồ hệ thống chống vận tải cơ giới và hành quân chi viện Miền Nam.
Sự phát triển và mở rộng con đường Trường Sơn với mật độ xe cơ giới và binh lực lớn đe dọa một sự thảm bại đến gần. Quân đội Mỹ phải tiến hành tiếp theo chiến dịch tác chiến điện tử quy mô dọc tuyến đường Hồ Chí Minh, chiến dịch đánh phá tuyến đường giao thông anh hùng có tên là Operation Commando Hunt do lực lượng Hải quân hạm đội 7 của Mỹ kết hợp với tập đoàn không quân Hải quân số 77 tiến hành từ 11.11.1968 đến 29.3.1972 và một gian đoạn tiếp theo cho đến khi Mỹ quyết định rút quân khỏi Việt Nam, trong chiến dịch này đã sử dụng rộng rãi các thiết bị trinh sát điện tử như ADSID với nhiều chủng loại khác nhau như:
Air Delivered Seismic Intrusion Detector (ADSID) Thiết bị thám sát địa chấn thả từ trên không.
ACOUBOUY; Acoustic Seismic Intrusion Detector (ACOUSID)Thiết bị thám sát âm thanh; .
Fighter Air-Delivered Seismic Intrusion Detector (FADSID)Thiết bị thám sát âm thanh thả bằng máy bay phản lực; .
Helicopter-emplaced Seismic Intrusion Detector (HELOSID). Thiết bị dò tìm âm thanh của trực thăng; .
Hand-emplaced Seismic Intrusion Detector (HANDSID) Thiết bị dò tìm âm thanh, địa chấn của thám báo; .
Hai loại Cây nhiệt đới ADSID II and ACOUSID III; .
Vùng tác chiến điện tử và không kích đường Trường Sơn bằng không quân..
Thời gian đầu tiên, những cảm biến kiểu Cây nhiệt đới này được thả xuống các khu vực đường vận tải bằng máy bay hải quân OP -2 Neptune, do cấu trúc nặng nề và tốc độ bay chậm, hay bị lực lượng phòng không mặt đất của bộ đội Trường Sơn bắn rơi.
Các cảm biến này được rải bằng nhiều loại phương tiện khác nhau như máy bay phản lực, máy bay trực thăng, một số các loại cảm biến khác còn do lực lượng thám báo Mỹ (SOG). Số lượng các cảm biến điện từ trường và âm thanh tính chỉ riêng năm 1969 là 5.000 chiếc, đến năm 1972, số lượng lên đến 40.000 chiếc được rải xuống.
Sơ đồ tác chiến điện tử khu vực Khe Sanh – A shau, A Lưới. Các điểm chấm là tuyến rải các sensors.
Máy bay tác chiến điện tử EC -121R.
Hệ thống radars thu tín hiệu chuyển tải về trung tâm tác chiến điện tử ICS ở Thái Lan.
Trung tâm tác chiến điện tử chống thâm nhập ICS ở Thái Lan.
Các sensors được rải xuống các tuyến đường vận tải Trường Sơn cũng chỉ là một phần công việc. Sau khi các sensors được rải và kích hoạt, thông tin từ các sensors được truyền tải qua các máy bay tác chiến điện tử của hãng Lockheed EC-121R và hãng Beach "Deboneyrs" cho máy bay EU-121 "Paiva Eagle" về các trung tâm chỉ huy, trong đó có trung tâm tác chiến điện tử Mỹ đặt tại Trung tâm Giám sát Thâm nhập (Infiltration Surveillance Center - ICS) ở Thái Lan, sử dụng máy tính IBM 360 – 65.
Từ những thông tin thu thập được, người Mỹ xác định những tuyến đường vận tải, kho tàng và khu vực tập trung xe máy kỹ thuật, từ đó ra quyết định công kích đường không. Do độ sai lệch trong xác định vị trí các cảm biến rất lớn (khoảng vài trăm mét), không quân Mỹ thường tiến hành các đợt không kích ồ ạt với số lượng bom đạn không hạn chế. Trong mỗi mùa khô vận tải, mỗi ngày địch sử dụng từ gần 200 đên 400 lần không kích bằng máy bay phản lực, 10 – 12 các chuyến bay tuần thám và tấn công các đoàn xe vận tải AC-130, khoảng từ 20 đến 30 lần không kích bằng máy bay ném bom chiến lược B-52.
(còn nữa)
Theo Trịnh Thái Bằng
Tiền phong
Mỹ tác chiến điện tử ở chiến trường Việt Nam thế nào? (II)
Tác chiến thường xuyên trên đường mòn Hồ Chí Minh là hơn 500 máy bay chiến đấu các loại. Đối đầu với đội quân hùng mạnh nhất thế giới là sức mạnh trí tuệ Việt Nam.
>> Giải mật chiến tranh điện tử Mỹ ở Việt Nam (kỳ I)
AC 130 Gunship trên chiến trường Việt Nam.
Để tăng cường khả năng ngăn chặn các đoàn vận tải trên các tuyến đường Trường Sơn, quân đội Mỹ sử dụng các máy bay vận tải như АС-119, АС-47, АС-130 trang bị một hệ thống tác chiến điện tử rất hiện đại, hoạt động hiệu quả trong môi trường thiếu ánh sáng và nhiễu loạn bởi các vụ nổ. Đó là các hệ thống TV quang học điện tử nhạy sáng hoạt động trong điều kiện ánh sáng mờ, hệ thống radar và video quan sát hồng ngoại FLIR vùng bán cầu phía trước của máy bay, hệ thống "Black Crow" (quạ đen) phát hiện sự đột biến của từ trường (khi động cơ khởi động và nổ máy, có hiện tượng đánh lửa ở bugi).
Trong 3 hệ thống này, thông thường hệ thống radar hồng ngoại làm việc hiệu quả nhất, nhưng để xác định chính xác tọa độ cũng như số lượng đoàn xe cơ động, hoặc đoàn quân đang hành quân đêm, cần phải có sự phối hợp của các 3 hệ thống. Trên các máy bay đều được trang bị các loại vũ khí hạng nặng, từ súng máy Vulcan 20 mm đến pháo 40 mm, 105 mm và rockets.
Những cung đường vận tải và xe ô tô vận tải do máy bay trinh sát Mỹ chụp ảnh.
Các tuyến tác chiến điện tử của chiến dịch Command Hunt..
Chiến thắng công nghệ bằng sức mạnh trí tuệ Việt Nam
Thời điểm ban đầu, hệ thống sensors, các máy bay trinh sát tác chiến điện tử và các máy bay tác chiến điện tử đã gây rất nhiều khó khăn và tổn thất nặng cho các đơn vị vận tải. Lực lượng công binh của Binh đoàn Trường Sơn đã đáp trả bằng mọi biện pháp từ thô sơ đến hiện đại, các giải pháp thông thường là thay đổi các cung đường, các binh trạm vận tải, thành lập các tuyến đường ngắn và nhiều nhánh đường tránh cho xe cơ động khi gặp địch đánh phá, thành lập các tuyến đường kín chạy ban ngày tránh sự dò tìm của các máy bay trinh sát hồng ngoại ban đêm của địch.
Đường kín trong các tuyến đường Trường Sơn.
Các biện pháp chống chiến tranh điện tử thường được sử dụng là dùng các băng casset thu âm tiếng động cơ xe máy để phát gọi máy bay địch đến đánh phá những tuyến đường nghi binh, sử dụng các xe cháy hỏng có thể nổ máy được để nghi binh hoặc dùng một số xe nghi binh chạy đi chạy lại nhiều lần trên các tuyến đường tự do đánh phá. Giải pháp được cho là tối ưu nhất nhằm chống lại lực lượng không quân địch, đặc biệt là máy bay AC – 130 là lực lượng phòng không và truy quét thám báo địch.
Năm 1968, lực lượng này chỉ gồm các vũ khí 37-mm và 57-mm có radar điều khiển. Năm sau đã xuất hiện pháo phòng không 85-mm và 100-mm, đến năm 1972, đường Trường Sơn đã được bảo vệ bởi hơn 1.500 khẩu súng phòng không. Ngày 29.3.1972, máy bay AC-130 đã bị bắn rơi trong một phi vụ ban đêm bởi tên lửa đất đối không vác vai SAM-7 ở gần Tchepone. tháng 8 năm 1972, chiếc AC-130 thứ hai đã bị bắn rơi bằng tên lửa SA-2. Sau vụ này, AC-130 phải lui về hoạt động ở phía Nam đường 9. Nỗ lực của Mỹ dùng máy bay AC-130 và Không quân Hải quân để đánh phá và chặn xe đã bị vô hiệu hóa.
Tác chiến điện tử trên chiến trường Miền Nam Việt Nam
Trên chiến trường Miền Nam Việt Nam, quân đội Mỹ cũng triệt để sử dụng các trang thiết bị điện tử để chống lại các cuộc tấn công của các lực lượng Quân Giải phóng. Các thiết bị ảnh nhiệt quan sát ban đêm được lắp trên các máy bay tuần tiễu OV-1 " Mohawk ", các máy bay này tiến hành tuần tiễu dọc các dòng sông vùng đồng bằng sông Cửu Long, sông Mê Kông thông thường là một cặp đôi với máy bay trực thăng chiến đấu AH-1G "Huey Cobra " hoặc máy bay trực thăng UH -1A "Iroquois"được trang bị rockets và súng máy.
Máy bay trực thăng hỏa lực AH-1G "Huey Cobra " trên đồng bằng sông Cửu Long.
Máy bay trinh sát phát hiện những chiếc ghe tam bản, những chiếc thuyền vận tải trên sông và gọi máy bay chiến đấu đến tấn công, những cặp đôi trinh sát – hỏa lực này đã gây rất nhiều khó khăn cho những hoạt động vượt sông hoặc vận tải ban đêm của những chiến sĩ du kích. Ngoài ra, các máy bay UH-1A còn được lắp đặt các ổ treo thiết bị quang hồng ngoại thụ động AN/ AAQ-5. Trên các máy bay "Huey Cobra" bắt đầu thử nghiệm lắp đặt các bộ khí tài kính ngắm hồng ngoại và ảnh nhiệt, một vài chiếc "Huey Cobra" đã thực hiện nhiệm vụ bằng các thiết bị này.
Việc sử dụng các thiết bị quang học điện tử trên máy bay trực thăng không được sử dụng rộng rãi như máy bay cánh quạt và phản lực một phần do khả năng dễ bị tiêu diệt bởi súng bộ binh, nhưng việc lắp đặt thử nghiệm các hệ thống trang thiết bị AN/AAQ-5, CONFICS và ATAFCS đã trở thành cơ sở căn bản cho hệ thống thiết bị TADS/ PNVS trên máy bay АН-64А "Apache" sau này, các máy bay trực thăng ở miền Nam Việt Nam còn được lắp đặt các thiết bị thu âm và thiết bị phát hiện người trong các khu vườn hoang, cánh đồng hoặc vùng lau sậy ХМ-3 "People Sniyffer".
Máy bay UH-1 mang thiết bị nhìn đêm AN/ AAQ-5.
Quân đội Mỹ cũng chế tạo các thiết bị sensors dành cho bộ binh trong các khu vực đồn trú. Do tính chất khốc liệt và thường xuyên bị tấn công, phục kích cả ngày lẫn đêm, ngoài những hệ thống hàng rào vật cản, các khu căn cứ Mỹ còn được trang bị các thiết bị mini SID, micro SID DSID, (GSID hay Ground Seismic Intrusion Detector, PSID hay Patrol Seismic Intrusion Detector và HANDSID).
Đó là một hệ thống PSID có 4 cảm biến địa chấn và nối liền với thiết bị truyền thông tin hữu tuyến, những thiết bị này hoạt động theo nguyên tắc cổ xưa (vướng và kích hoạt) tuyền tải thông tin về thiết bị điều khiển, tín hiệu có thể truyền xa đến 500 m. Nhờ những hệ thống này đi kèm với các thiết bị kính nhìn đêm, radar mặt đất mà quân đội Mỹ đã giảm nhiều các tổn thất ban đêm. Một sĩ quan Mỹ đã nhận xét:“PSID đơn giản, có độ tin cậy cao và ít bị hỏng hóc, đồng thời lại có kích thước và khối lượng nhỏ gọn, tôi muốn có 20 bộ khí tài như vậy trong một trung đội thay vì 20 bộ trong một tiểu đoàn”.
PSID cho các đơn vị tuần thám và phục kích những năm 1960- x.
Thiết bị phát hiện người ẩn nấp Е-63 “people sniffer” .
Thiết bị tăng độ phân giải ánh sáng mờ AN/TVS-2 gắn trên súng máy 12,7mm.
Thiết bị tăng độ phân giải ánh sáng mờ AN/PVS-2 gắn trên súng trường tự động.
Đập tan huyền thoại công nghệ cao quân đội Mỹ
Để chống phá các hệ thống phòng ngự điện tử, các chiến sĩ giải phóng quân đã thực nghiệm và đúc kết các kinh nghiệm tác chiến nhằm vô hiệu hóa khí tài hiện đại.
Phương pháp đơn giản nhất là nghi binh, những đòn tấn công nghi binh thường xuyên liên tục đã làm cho lực lượng địch thiếu đi sự tin tưởng vảo trang thiết bị và tổn thất về vũ khí, đạn và cơ sở vật chất đi cùng, từ đó sử dụng lực lượng đặc công, biệt động luồn sâu, đánh địch ngay trong căn cứ.
Phương pháp thứ hai rất hiệu quả là phục kích đánh địch khi đối phương tiến hành các chiến dịch hành quân hoặc truy quét tìm và diệt. Khi đó, quân Mỹ không có khả năng sử dụng các phương tiện mặt đất, mà chỉ có thể sử dụng các phương tiện trinh sát đường không, dễ bị bắn hạ bởi vũ khí bộ binh.
Săn máy bay trực thằng của Trung đoàn Bình Giã.
Phương pháp thứ ba: gây căng thẳng tột cùng cho địch là công kích hỏa lực tầm xa, bằng các loại vũ khí từ tự chế đến hiện đại như ĐKB (tên lửa BM -21 mang vác). Phương pháp thứ tư đó là phong trào săn máy bay địch bằng vũ khí có trong tay, từ bom mìn tự chế đến đến hỏa khí bộ binh.
Pháo phản lực ĐKB (BM-21) bắn ứng dụng.
Chiến tranh điện tử phong tỏa Biển Đông
Cuộc chiến tranh điện tử còn được triển khai rộng rãi trên mặt biển và các vùng nước quan trọng như hải cảng, căn cứ quân sự ven sông.
Sơ đồ phong tỏa đường biển của Mỹ ở Việt Nam.
Để ngăn chặn các chuyến hàng vận tải biển của Đoàn tàu Không số 128. Quân đội Mỹ đã triển khai một hệ thống trang thiết bị điện tử rộng rãi trên mặt nước Vịnh Bắc Bộ, dọc theo ven biển miền Nam Việt Nam, liên tục hoạt động là 20 đài radar quan sát mặt biển và theo dõi mọi tàu thuyền. Các máy bay tuần biển như OP-2 Hecquyn, P-3 Orion tiến hành các hoạt động tuần tiễu ven biển 24/24 giờ trong ngày, gặp các tàu thuyền có dấu hiệu nghi ngờ, các trạm radars và các máy bay trinh sát tuần biển sẽ lập tức xác định tọa độ, chụp ảnh và tiến hành theo dõi ngay từ vùng nước quốc tế, khi các tàu đi vào vùng phong tỏa, các giang đoàn của hải quân Sài Gòn và các chiến hạm của Hạm đội 7 lập tức bao vây, tiếp cận lục soát hoặc trong các trường hợp có biểu hiện lạ, sử dụng hỏa lực tấn công tiêu diệt.
Trong các hải cảng quân sự, quân đội Mỹ sử dụng triệt để các thiết bị theo dõi chống đặc công nước, đó là các đài sonar chủ động, hệ thống lưới chắn cạm bẫy cùng với các thiết bị báo động xâm nhập, các phao thủy âm. Toàn bộ hệ thống được kết nối lại bằng hệ thống truyền tải thông tin hữu tuyến vào một trung tâm duy nhất nhằm chống xâm nhập sau sự kiện một tàu chở dầu 15.000 bị lực lượng đặc công biệt động đánh chìm ở cảng Sài Gòn. Hải quân Mỹ cũng huấn luyện một đơn vị cá heo làm nhiệm vụ đeo sonar tuần thám dưới nước và phát hiện xâm nhập. Một sĩ quan hải quân Mỹ đã nhận xét: ”Cá heo rất thông minh, nó có khứa giác nhạy cảm và là một đài sonar tự nhiên tốt nhất, nó có thể bơi nhanh hoặc chậm tùy theo người điều khiển, với sonar gắn trên đầu, cá heo giúp cho lực lượng phòng vệ nhanh chóng phát hiện người nhái đột nhập…”. Đã có hàng trăm cá heo được huấn luyện cho mục đích này.
Bản đồ hoạt động của lực lượng hải quân và không quân hải quân Hạm đội 7 Mỹ ở Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh kéo dài từ năm 1964 – 1973 của quân đội Mỹ, TCĐT đã được áp dụng triệt để, trên mọi môi trường tác chiến, từ tác chiến trên không, trên đất liền và trên biển. Các phương tiện tác chiến được lắp đặt trong mọi phương tiện chiến đấu, từ máy bay cường kích phản lực, máy bay yểm trợ hỏa lực, trực thăng cho đến các phương tiện trên mặt đất. Tuy chưa cấu thành một hệ thống tác chiến điện tử đồng bộ, nhưng những bài học kinh nghiệm trong ứng dụng các trang thiết bị TCĐT đã trở thành cơ sở căn bản để cấu thành hệ thống các phương tiện trinh sát điện tử hiện đại ngày nay.
Cuộc chiến đấu chống Mỹ giai đoạn 1964 – 1972 ở Miền Nam Việt Nam là cuộc đối đầu với một hệ thống công nghệ quân sự hiện đại và sức sáng tạo không ngừng của các chiến sĩ lực lượng vũ trang Miền Nam Việt Nam. Kết quả của chiến tranh đã rõ ràng, nhưng những bài học của nó vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn trong chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Cũng cần phải khẳng định, dành được thắng lợi trong “Chiến tranh điện tử, đó là sự kết hợp giữa trí tuệ con người và khoa học công nghệ”. Trang thiết bị khí tài tác chiến càng hiện đại, càng đòi hỏi sức sáng táo và năng động trong ứng dụng công nghệ vào thực tế chiến trường.
Chiến tranh điện tử không chỉ có trong thời chiến, nó được thực hiện ngay trong thời bình và phát triển vô cùng mạnh mẽ. Để có thể đánh thắng kẻ thù trong Chiến tranh điện tử, cần có sự hiểu biết sâu sắc về TCĐT, phương tiện khí tài chiến đấu, sử dụng thành thạo trong thực tiễn, đồng thời phát triển công nghiệp điện tử quốc phòng, để có thể có được hệ thống khí tài tác chiến đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.
(còn nữa)
Theo Trịnh Thái Bằng
Tiền phong
Quyết đấu với "Uncle Sam" trên bầu trời Hà Nội(III)
Các lực lượng tên lửa bảo vệ Hà Nội đã chặn đứng 25 đợt tấn công ồ ạt, phóng 181 tên lửa, tiêu diệt 54 máy bay, trong đó có 31 В-52, 13 F-4, 10 А-6 và А-7.
>> Mỹ tác chiến điện tử ở chiến trường Việt Nam thế nào? (II)
Cuộc chiến tranh điện tử mạnh mẽ và dữ đội nhất trong lịch sử tác chiến đã xảy ra trên bầu trời Miền Bắc Việt Nam, là cuộc đối đầu giữa một thế trận phòng không nhân dân nhiều tầng nhiều lớp, với một lực lượng không quân cường kích mạnh nhất thế giới, với mọi loại vũ khí, trang thiết bị vô cùng hiện đại.
Hoạt động của Không quân Mỹ trong chiến tranh ở Việt Nam.
Không quân Mỹ ở Việt Nam
Trong những năm đầu của cuộc chiến tranh đường không lớn nhất trong lịch sử chiến tranh từ sau đại chiến thế giới lần thứ II, lực lượng không quân Mỹ chỉ phải đối phó với lực lượng súng pháo phòng không các cỡ nòng từ súng trưởng đến pháo phòng không 100 mm. Chỉ có hệ thống pháo phòng không 57mm được kết nối với radar điều khiển bắn. Do đó, tác chiến điện tử chỉ nằm trong lĩnh vực sử dụng máy bay trinh sát các độ cao, từ máy bay U-2, SR – 71 đến máy bay trinh sát không người lái.
Sự xuất hiện của hệ thống tên lửa phòng không S-75 Dvina đã làm thay đổi tất cả. Chưa bao giờ các phi công Mỹ cảm thấy khủng khiếp khi bay vào bầu trời Hà Nội, số lượng máy bay bị bắn hạ tăng lên đến chóng mặt và buộc Bộ tổng tham mưu Không quân và Không quân Hải quân Mỹ phải khẩn cấp đối phó. Những phương tiện chế áp điện tử được nhanh chóng nghiên cứu và chế tạo dựa trên các thông số kỹ chiến thuật của những tổ hợp tên lửa S-75 Dvina do Israel thu được từ liên quân các nước Ả rập. Đỉnh cao của các hoạt động TCĐT trong cuộc không chiến trên bầu trời Miền Bắc là các chiến dịch Linebacker I và Linebacker II vào năm 1972, có sự tham gia với quy mô lớn của máy bay ném bom chiến lược B-52.
Chiến dịch Linebacker II là chiến dịch mà các hoạt động TCĐT của Không quân Mỹ được triển khai với quy mô lớn nhất, áp dụng những công nghệ hiện đại nhất và thực hiện có hiệu quả cao nhất tính từ thời điểm áp dụng các phương tiện chế áp điện tử chống hệ thống phòng không Miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là hệ thống tên lửa S-75 Dvina trong thế trận phòng ngự Hà Nội, Hải Phòng.
Chiến dịch Linebacker II
Trong quá trình tiến hành chiến dịch không kích đường không mang tính chất quyết định cuộc chiến tranh Việt Nam trên cả lĩnh vực chính trị và quân sự. Bộ tổng tham mưu liên quân quân đội Mỹ đã triển khai trên quy mô rộng lớn các hoạt động TCĐT, xác định hệ thống đồng bộ các hoạt động TCĐT là yếu tố quyết định quan trọng đảm bảo các hoạt động tác chiến của lực lượng không kích đường không. Các hoạt động TCĐT bao gồm có:
- Tìm kiếm và phát hiện tất cả các khí tài radars điện tử của hệ thống phòng không.;
- Chế áp điện tử tất cả các đài radars của các phượng tiện, vũ khí phòng không của Việt Nam;
- Sử dụng các đầu đạn (bom, tên lửa tự dẫn chống radars) tiệu diệt và phá hủy các phương tiện phát sóng radars của hệ thống phòng không.
Các hoạt động TCĐT được triển khai trên tất cả các mục tiêu và mục đích tác chiến ở tầm chiến lược cũng như tầm chiến thuật. Các nhiệm vụ trinh sát chiến lược được thực hiện bởi các máy bay như SR-71, U-2 và RC-135, các nhiệm vụ trinh sát chiến thuật được thực hiện bởi các đài trinh sát điện tử - radar chế độ thụ động, lắp đặt trên tất cả các máy bay chiến lược, chiến thuật và máy bay thuộc không quân hải quân.
Các bộ khí tài trinh sát radars được nêu trong bảng sau.
Các đài trinh sát điện tử APR-25 (26), APR-36 (37) và APS-109 cho phép các phi công Mỹ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ không những phát hiện được bị chiếu xạ bằng radar của vũ khí phòng không, mà còn theo các thông số nhận được xác định được loại radar, hướng chiếu xạ radars và khoảng cách từ đài radar đến các máy bay. Thông tin về radars được truyền đến phi công và cơ trưởng bằng tín hiệu âm thanh và được hiển thị trên màn hình bảng đặc biệt cùng với các đèn tín hiệu. Hướng chiếu tia quét radar và nguồn phát đài radar cũng như khoảng cách đến đài radars được xác định bằng các thông số tín hiệu trên màn hinh đặc biệt hiển thị bằng các chỉ số điện từ. Ví dụ như trên đài trinh sát ARR-25 (26) có 4 giải pháp indicator hiển thị tín hiệu:
- Màn hình hiển thị indicator “góc phương vị - tầm xa”;
- Bảng báo hiệu chiếu sáng và tín hiệu đèn nhấp nháy;
- Tín hiệu âm thanh trong tai nghe mũ lái;
- Đồng hồ và kim chỉ mức độ nguy hiểm.
Hướng chiếu xạ của radars được xác định bằng các anten thu thụ động với các vùng thu sóng radars chùm lên nhau, sác xuất sai lệch xác định góc phương vị từ 1-2°. Tầm xa của các đài radar có xác suất sai lệch lớn hơn, dựa trên công suất chùm sóng radio chiếu xạ lên máy bay (tính trên những thông số kỹ chiến thuật mẫu về các đài radars của Phòng không Việt Nam) do đó có độ chính xác không cao. Kiểu loại và tính năng kỹ chiến thuật của các phương tiện phòng không cũng được hiển thị lên màn hình indicator điện từ. Khi máy bay bị chiếu xạ bởi nhiều đài radars khác nhau, hệ thống phụ thuộc vào các thông số của bức xạ radio, độ dài của bước sóng, công suất của chùm sóng hoặc đường truyền xung để xác định các đài radars cũng như góc và hướng phát. Thông tin lần lượt theo mức độ ưu tiên nguy hiểm hiển thị lên màn hình indicator điện tử.
Máy bay tác chiến điện tử EB – 66.
Thực hiện công tác chế áp điện tử, trên máy bay ném bom chiến lược B-52 và máy bay tác chiến điện tử EB – 66 có các đài trinh sát ALR-20. Đài có nhiệm vị xác định tần số phát sóng của các đài radars và hiệu chỉnh các đầu phát xung gây nhiễu, được lựa chọn để chế áp các đài radars.
Như vậy, bằng các trang thiết bị điện tử có trên máy bay, các phi công có khả năng đánh giá được tình hình môi trường điện từ trên chiến trường, xác định mức độ nguy hiểm từ các đài radars theo dõi, radars pháo phòng không và radars tên lửa, từ đó xác định thời điểm lực lượng phòng không mặt đất phóng tên lửa, từ những thông tin nhận được, quyết định các hoạt động cơ động tránh tên lửa hoặc sử dụng vũ khí tên lửa chống radars.
Chế áp điện tử và cuộc quyết đấu
Không quân và Hải quân Mỹ, trước thế trận phòng không dày đặc của Miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là khu vực Hà Nội và Hải Phòng, đã nỗ lực tổ chức và triển khai TCĐT trên quy mô lớn nhất nhằm phá hoại và cắt đứt mọi hoạt động điều hành tác chiến của Bộ tham mưu lực lượng Phòng không – Không quân, đồng thời giảm đến tối thiếu khả năng chiến đấu của vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu của không quân và phòng không Việt Nam.
Để thực hiện mục đích đó, quân đội Mỹ sử dụng triệt để các phương tiện chế áp bằng gây xung radio nhiễu loạn trong không gian điện từ, gây nhiễu chủ động và rải gây nhiễu thụ động. Số lượng các đầu phát nhiễu radio điện từ phụ thuộc vào loại máy bay và nhiệm vụ chiến đấu được giao. Trên máy bay ném bom chiến lược B - 52 lắp đặt 15 đầu phát xung điện từ radio gây nhiễu chủ động, trên máy bay tác chiến điện tử EB -66 lắp 12 đầu phát xung gây nhiễu, trên các máy bay chiến thuật có từ 2 – 4 đầu phát. Các đầu phát xung radio gây nhiễu có thể phát xung che phủ một dải tần số từ 40 đến 10500 MHz . Thiết bị gây nhiễu tập trung nhiều vào dải tần số hoạt động của các tổ hợp khí tài điện tử radar trinh sát tầm xa, radars điều khiển và dẫn bắn tên lửa phòng không, pháo phòng không và radars dẫn đường máy bay tiêm kích của quân chủng Phòng không Không quân. Hoạt động chế áp điện tử nhằm vào các loại radars như P -12, P- 15, P-35, PRV 11, đài điều khiển và dẫn đường tên lửa RSNA – 75M, đài điều khiển hỏa lực phòng không SON – 9, đài radar theo dõi, ngắm bắn mục tiêu của máy bay tiêm kích RP – 21M, các đài vô tuyến R – 405 và tổng đài tác chiến R – 109. Trên các máy bay B-52 và máy bay TCĐT EB -66 lắp đặt các đài phát gây nhiễu các rãnh đạn RSNA – 75M, trên các máy bay chiến thuật không lắp đặt các loại này.
Gây nhiễu thụ động chủ yếu sử dụng các cuộn dây bạc lượng cực phản xạ sóng radars, che chắn các dải tần số có bước sóng can ti mét, đề xi mét và mét. Gây nhiễu thụ động thường được máy bay chiến thuật F – 4 Phantom thực hiện bằng các avtomat và các thùng container dây băng gây nhiễu. Các chùm dây băng gây nhiễu thụ động này được sử dụng để che chắn và ngụy trang đội hình không kích của máy bay ném bom chiến lược, chiến thuật và không quân hải quân, đồng thời cũng được dùng để tự vệ ngụy trang trước nguy cơ bị tên lửa phòng không bắn rơi. Hệ thống các bộ khí tài gây nhiễu được tổ chức như sau:
- Hệ thống khí tài gây nhiễu chủ động (nhiễu loạn sóng radio chủ động chế áp các đài radar được phát từ các máy bay ném bom chiến lược, máy bay chiến thuật, máy bay TCĐT EB – 66 và các chiến hạm thuộc hạm đội 7 đang hoạt động ngoài khơi vịnh Bắc Bộ.
- Các đài gây nhiễu các rãnh đạn tên lửa S- 75M bằng sóng radio được lắp trên các cụm máy bay tập kích chiến thuật đường không và máy bay yểm trợ, nghi binh và chi viện thuộc Không quân và Không quân hải quân Mỹ;
- Các loại nhiễu thụ động (dây băng gây nhiễu lưỡng cực) được lắp đặt trên các máy bay chiến lược, chiến thuật và các máy bay không quân hải quân.
Trong các đợt tấn công ồ ạt bằng máy bay ném bom chiến lược, các cụm không kích máy bay chiến thuật, đòn tấn công gây nhiễu được bắt đầu bằng các máy bay TCĐT. Nguyên tắc tổ chức thực hiện như sau: Trước 15-20 phút bắt đầu tấn công, các máy bay tác chiến điện tử gây nhiễu chủ động (Không quân - ЕВ-66, Không quân Hải quân - ЕА-6В và ЕКА-ЗВ), tiếp cận vùng trời Vịnh Bắc Bộ và Lào và bắt đầu gây nhiễu chiến thuật, 10-16 phút sau cuộc không kích, các máy bay TCĐT dừng phát xung radio gây nhiễu.
Vùng TCĐT của máy bay EB – 66 thông thường nằm trên hướng bay không kích của máy bay B- 52 vào mục tiêu. Các máy bay TCĐT bay theo 1 quỹ đạo chiến đấu trên độ cao từ 6 – 7 km mỗi tốp thường từ 2 – 3 máy bay. Trên hướng Thái Lan – Lào các máy bay bay ở khoảng cách đến biên giới Việt Nam từ 60 – 80 km trên vùng trời Sầm Nưa; từ hướng căn cứ Guam – Vịnh Bắc Bộ - 50 – 60 km cách bờ biển. Mỗi tốp máy bay TCĐT Mỹ được bảo vệ và che chắn bởi một biên đội máy bay tiêm kích (1 – 2 chiếc). Tần số phát sóng radio gây nhiễu của EB – 66 nằm trong dải tần tử 40 – 3500 MHz. Các máy bay chiến thuật như F -4, F -105 trong đội hình chi viện và yểm trợ cho máy bay B-52 cũng được trang bị các bộ khí tài gây nhiễu chủ động.
Các máy bay này được lắp đặt 4 containers gây nhiễu chủ động ALQ-87 hoặc ALQ-101, gây nhiễu radar trong một hoặc hai chế độ. Ở chế độ chế áp sóng radar SNR tìm kiếm, phát hiện mục tiêu và dẫn đường đạn trên tần số 40-50 MHz của các đài radars tên lửa, pháo phòng không và radars trinh sát mục tiêu tầm xa. Khi máy bay không bị chiếu xạ bằng radar (thoát khỏi vùng theo dõi) của radar. Chế độ thứ hai là chế độ phát xung radio ngăn chặn phát hiện và theo dõi của các radar tầm xa trên tần số bước sóng từ 200-300 МHz. Chế độ này được bật khi máy bay bay vào vùng chiến đấu của các đài radar phát hiện mục tiêu, không phụ thuộc vào tình huống bị chiếu xạ hay không. Hệ thống điều khiển các bộ khí tài gây nhiễu được tự động hóa hoặc phi công sẽ điều khiển trên chế độ “bật – tắt” khi bước vào cuộc không kích.
Sơ đồ gây nhiễu thụ động của máy bay B-52 và máy bay chiến thuật.
Phương pháp gây nhiễu chiến thuật của không quân Mỹ.
Phương pháp gây nhiễu chiến thuật của không quân Mỹ.
Gây nhiễu thụ động trong các trường hợp không kích ồ ạt bằng máy bay chiến lược được thực hiện bởi chính các máy bay ném bom B-52 hoặc các cụm máy bay chiến thuật của Không quân hoặc không quân hải quân. Rải nhiễu thụ động lưỡng cực được tiến hành bởi các tốp máy bay trinh sát hỏa lực chiến thuật trong khoảng từ 10 – 15 phút trước khi máy bay ném bom chiến lược B-52 tiếp cận mục tiêu. Khu vực triển khai gây nhiễu thụ động được lựa chọn theo hướng tiếp cận mục tiêu của máy bay ném bom, thời gian dự kiến các máy bay ném bom sẽ bay vào vùng hỏa lực của tên lửa hoặc pháo phòng không và độ cao gây nhiễu phụ thuộc vào độ cao quỹ đạo bay của máy bay B-52.
Thông thường, các tốp máy bay F-4D và F-4E sẽ gây nhiễu ở khoảng cách từ 40 – 50 km đến mục tiêu không kích dọc theo đường bay của máy bay ném bom và gây nhiễu dày đặc ở khu vực mục tiêu. Một phi đội từ 4 – 8 máy bay sẽ tạo một hành lang nhiễu dày đặc khoảng 30 km và có chiều rộng từ 4 – 6 km. Các máy bay gây nhiễu bay theo tốp 4 chiếc, 2 tốp bay 8 chiếc dàn hàng ngang với khoảng cách từ 600 – 800 m ở độ cao 6 – 7 km. Thời gian phóng các thùng nhiễu giãn cách từ 3 – 5s. Khi rơi khỏi máy bay, phút chốc các thùng nhiễu sẽ bị kích nổ tự động, các bó nhiễu được tung dày đặc trong không gian. Trong khoảng từ 4 – 5s, các bó nhiễu thụ động dưới tác dụng của các dòng không khí, tạo ra trên màn hình các loại radar tín hiệu tương tự như tín hiệu bắt được từ mục tiêu. Khi máy bay ném bom B-52 bay đến khu vực gây nhiễu, trên màn hình radar hình thành các sọc tín hiệu nhiễu dày đặc, gây khó khăn cho việc tìm kiếm, phát hiện mục tiêu và xác định tình huống không tập.
Tên lửa chống radar Shrike
Để tăng cường khả năng chế áp điện tử, không quân Mỹ đã thành lập các đơn vị không chiến với radar, mỗi phi đội không kích radars được biên chế từ 4 – 6 máy bay chiến thuật hoặc không quân hải quân ( F-105G và F-105D, có thể là F-4C, А-4, А-6А, А-7Е và F-8). Tập kích các đài radars được thực hiện bằng các tên lửa điều khiển tự dẫn bằng sóng radars tên lửa như AGM-45 " "Shrike" và AGM-78 " Standard ARM". Các loại tên lửa chống radars được sử dụng để chống radar điều khiển hỏa lực của tên lửa S-75M Dvina, radar điều khiển hỏa lực SON – 9 và các đài radars trinh sát P-35, PRB – 11
Sơ đồ tấn công radars bằng tên lửa chống radars Shrike.
Phương thức tác chiến tấn công các đài radars tên lửa như sau. Các máy bay mang tên lửa chống radars bay ở khoảng cách từ 15 đến 20 km cách khu vực tấn công của B-52 trên độ cao trung bình, các phi công có nhiệm vụ công kích radar đều là những phi công lão luyện trong điều khiển tên lửa chống radar và có kỹ năng cơ động tránh tên lửa tốt. Khi khí tài trinh sát phát hiện có chiếu xạ radar, thông tin đường truyền tải vào đầu dẫn tên lửa, tên lửa được phóng chậm nhất là sau 10 – 15 s khi bắt được tín hiệu khóa sóng radar của đài phát.
Các máy bay chống radar chỉ có thể phóng tên lửa ở chế độ bay ổn định trên mặt phẳng ngang, độ cao bay là 2 – 4 km. Các trạng thái phóng tên lửa khác không được áp dụng. Tên lửa Shrike được phóng từ khoảng cách tính đến đài radar là từ 15 – 35 km với mục đích sao cho các trắc thủ tên lửa phòng không khó phát hiện được tên lửa Shrike tấn công. Tên lửa Shrike giai đoạn này không có hiệu quả tác chiến cao khi nhiều đài phát xung radars cùng hoạt động trong bán cầu đầu thu phía trước của tên lửa, đồng thời hoàn toàn mất phương hướng khi tin hiệu radars bị ngắt, chính vì vậy, hiệu quả tác chiến của Shrike không cao, trong suốt chiến dịch Linebacker II chỉ có 1 đài radar điều khiển tên lửa và hai radars đo độ cao PRV – 11 bị đánh trúng.
Trong chiến dịch Linebacker II, tin tưởng vào khả năng chế áp điện tử của các phương tiện tham gia tác chiến, quân đội Mỹ đã điều động một số lượng khổng lồ các phương tiên bay tham gia cuộc không kích có tính chất quyết định cuộc chiến tranh này. Trên vùng trời Hà Nội và Hải Phòng, Mỹ điều động 1.800 lần xuất kích máy bay chiến đấu, trong đó có 390 máy bay В-52, gần 1.200 máy bay chiến thuật và máy bay thuộc Không quân hải quân, 70 máy bay cường kích tầm thấp F-111A và 150 máy bay trinh sát điện tử quang ảnh SR-71, 147J, RF-4C và RA-5C.
Vạch nhiễu tìm thù
Trước khi bắt đầu chiến dịch Linebacker II, trong các trận chiến đấu chống B-52, lực lượng phòng không Việt Nam đã phát hiện ra dải tần số và cường độ của loại nhiễu này. Từ các phát hiện trên, đã hình thành tập tài liệu “Cách đánh B-52” các chuyên gia Liên Xô (cũ) và các kỹ sư quân sự Việt Nam đã khắc phục bằng phương pháp "át nhiễu", nâng công suất sóng hồi xung của đạn và sóng điều kiển đạn lên gấp ba lần, đủ sức vượt qua cường độ nhiễu không chỉ của loại ALQ-71 mà còn cả các loại máy gây nhiễu cùng tính năng có công suất lớn hơn như ALQ-101, ALQ-107. Từ năm 1968 đến năm 1973, các loại máy gây nhiễu rãnh đạn kiểu ALQ-x của không lực Hoa Kỳ trở nên vô hiệu đối với S-75 Dvina.
Những thay đổi được ghi nhận trên tổ hợp SAM-2 là việc các nhà khoa học Việt Nam phối hợp với chuyên gia Liên Xô thay đổi tần số điều khiển rãnh đạn giúp đạn tên lửa khó bị gây nhiễu bởi các thiết bị đối kháng điện tử chủ động và thụ động (trong giai đoạn 1965-1972, chuyên gia ta phối hợp với kỹ sư Liên Xô đã 5 lần thay đổi tần số rãnh đạn).
Phương pháp bắn ba điểm - sáng tạo sử dụng vượt tính năng khí tài của người Việt Nam
Thông qua thực tế chiến đấu, Bộ đội Tên lửa Việt Nam đã đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm để đối phó với màn nhiễu của không quân quân Mỹ và phương pháp vạch nhiễu tìm thù, lấy điểm yếu của địch làm lợi thế của ta.
Giai đoạn đầu của chiến dịch không kích, các đơn vị trắc thủ tên lửa hầu như không nhận biết được mục tiêu do các loại nhiễu dày đặc đã hoàn toàn ảnh hưởng đến khả năng quan sát chế độ thụ động của radar tên lửa (Ra đa cảnh giới kiêm dẫn đường P-35 Saturn, P-12 "Spoon Rest", đài radar cảnh báo sớm dải sóng VHF, tầm hoạt động 200 kilômét, P-15 "Flat Face C" radar cảnh giới và bắt mục tiêu, chống mục tiêu bay thấp băng C, công suất 380 kW, tầm hoạt động 250 km/155 dặm . PRV-11 "Side Net" radar đo độ cao mục tiêu). Đồng thời, các trắc thủ tên lửa do nguy cơ tấn công của tên lửa chống tên lửa phòng không, đã không thể sử dụng sóng radar phát chủ động để tìm kiếm mục tiêu. Qua tổng kết kinh nghiệm đánh trận đầu tiên, lực lượng phòng không Việt Nam đã phát hiện một vấn đề: bản thân máy bay B-52 cũng tự gây nhiễu chủ động, từ đặc điểm này có thể xác định được các tốp máy bay B-52 bay vào, từ đó quyết định phương pháp tấn công mục tiêu:
Nhiễu chủ động của В-52, chế áp trên dải tần số đài điều khiển SNRA -75M "Fan Song" có thể được phát hiện ở khoảng cách 180 – 200 km. Trên khoảng cách 60 – 70 km sĩ quan điều khiển có thể nhìn thấy 1 dải nhiễu rất lớn và các dải nhiễu nhỏ hơn, điều chỉnh độ nét, các trắc thủ giảm dải nhiễu xuống còn 3 – 3,5 độ. Trên khoảng cách 40 – 50 km, dải nhiễu mở rộng ra đến 6 – 7độ. Trên mặt phẳng góc phương vị dải nhiễu được chia ra thành 3 sọc sáng 3 – 3,5 độ, trên góc tà không chia, hoặc chia thành 2 sọc.
Những đặc điểm của nhiễu B-52:
1.Khi các máy bay B-52 vào không kích, cùng lúc địch gây nhiễu mạnh trên toàn bộ các dải tần số hoạt động của các trang thiết bị điện tử radio và cả sóng cực ngắn.
2. Dải nhiễu của các tốp máy bay B-52 ổn định về độ rộng, độ sáng và cường độ công suất hơn so với các máy bay chiến thuật. Do máy bay B-52 bày theo đường bay thẳng, có độ cao ổn định (9-12km) và tốc độ ổn định (220 – 230 m/s).
3. Quỹ đạo đường bay của máy bay B052 rất ổn định, tốc độ bẻ góc của B-52 theo góc phương vị khoảng 0,2 độ/s trong khoảng cách từ 30 – 100 km, do đó tốc độ thay đổi tần số dải nhiễu cũng rất ổn định.
4. Đuôi của dải nhiễu В-52 nếu so sánh với máy bay chiến thuật, để lại dầu vết lâu hơn.
5. Công suất của các đài phát xung gây nhiễu của В-52 rất mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến tín hiệu điều khiển tên lửa (nhiễu rãnh đạn). Theo các thông số của lực lượng phòng không, máy phát gây nhiễu ALT-28 tạo dải nhiễu trên mặt phẳng thẳng đứng là 20 – 25 độ, chiều rộng của dải nhiễu trên mặt phẳng ngang là 15 độ. Hiệu suất cao nhất của dải nhiễu nằm ở khoảng cách từ 24 – 25 km với độ cao máy bay là 10 – 12 km.
Từ những nhận định theo kinh nghiệm đã nếu, kíp trắc thủ xe điều khiển đã lựa chon phương thức bắn kết hợp 3 điểm TT và phương pháp bắn vượt nửa góc PC. Trong phương án bắn phối hợp này, sĩ quan điều khiển sau khi đã xác định dải nhiễu B-52 chuyển thông tin mục tiêu cho kíp trắc thủ radars. Phương pháp phóng tên lửa diệt mục tiêu B-52 được thực hiện như sau:
Kíp trắc thủ sau khi xác định mục tiêu tốp B-52 đang hướng về khu vực ném bom cần tiêu diệt. Trên khoảng cách 40 – 45 km tiến hành 1 lần phóng giả (nghi binh) nhằm xác định chính xác mục tiêu cần tiêu diệt và loại trừ nguy cơ Shrike. Sau đó tắt phát sóng chủ động của SNR và bám mục tiêu thụ động (hướng vào tâm điểm của vùng nhiễu được nhận định là B-52. Bật phát sóng chủ động khi mục tiêu đã vào vùng phóng tên lửa 28 – 34 km trong khoảng 5 – 7s nhằm xác định tình huống và điều kiện nhiễu, đặc biệt đánh giá sự hiển diện của nhiễu thụ động trong khu vực tên lửa gặp mục tiêu.
Tên lửa được phóng lên và điều khiển theo phương pháp 3 điểm (TT) trong điều kiện SNR tắt phát chủ động nhằm đảm bảo không bị công kích bởi tên lửa Shrike. Bật phát chủ động trong khoảng thời gian từ 15 – 18 s trước khi tên lửa gặp mục tiêu cho phép trong điều kiện phát hiện được tín hiệu mục tiêu trên nền nhiễu, có thể chuyển sang chế độ dẫn PS (vượt nửa góc) đồng thời bắt mục tiêu ở chế độ tự động, chế độ điều khiển tay quay và hỗn hợp (phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng xác định tín hiệu mục tiêu trong nhiễu xạ mạnh. Về căn bản, phương pháp bắn 3 điểm là hình thức cải tiến của phương thức bắn Vượt nửa góc với việc bỏ chế độ dẫn tự động sang dẫn đạn tên lửa bằng tay bám theo nguồn nhiễu do trắc thủ trực tiếp thực hiện. Khi tới cự ly tiêu chuẩn, đạn tên lửa sẽ đươc kích hoạt đầu tự dẫn để tìm kiếm, khóa và tiêu diệt mục tiêu. Điểm khó của phương thức này là việc vạch nhiễu, xác định đúng đâu là nguồn nhiễu của máy bay B-52 và đâu là nhiễu do máy bay chiến thuật tạo ra. Sau khi tên lửa đã chạm mục tiêu và phát nổ. Trắc thủ radar tắt nguồn phát và quay radar sang hướng khác, loại trừ tên lửa Shrike.
Một cải tiến mới cũng được đưa vào cho tên lửa nhằm chống nhiễu, đo là khởi động hệ thống tự dẫn và khởi động hệ thống kích nổ phi tiếp xúc trên khoảng cách ngắn hơn so vơi trước đây. Chế độ tự dẫn được khởi động hiệu quả nhất ở khoảng cách đến mục tiêu Rs là 8 – 15 km. Do dải nhiễu của B-52 kéo dài đến 25 km và dày đặc ở khu vực mục tiêu, do đó, nếu chế độ tự dẫn được bật muộn hơn 8 km, hiệu suất theo bám mục tiêu bị giảm đáng kể, nếu khoảng cách bật chế độ tự dẫn tên lửa lớn hơn 15 km, tên lửa sẽ bị ảnh hưởng bởi nhiễu thụ động, kết quả tiêu diệt mục tiêu bằng 0. Với chế độ tự dẫn lớn hơn hoặc bằng 8 km. Xác suất tiêu diệt là 0,25. Đồng thời cũng có sự thay đổi trong chế độ khởi động bộ phận kích nổ. Bộ phận kích nổ được khởi động trong khoảng cách từ 5 – 7 km đến mục tiêu. Do nhiễu xạ thụ động thường dày đặc ở tầm cao 6 – 8 km. Nếu bộ phận kích nổ khởi động theo nguyên lý chế tạo là 11,5km, tên lửa sẽ bị kích nổ khi xuyên qua tầng nhiễu thụ động. Việc kích nổ muộn hơn cũng giảm tỷ lệ ảnh hưởng của nhiễu thụ động.
Trong chiến tranh đất đối không tại Việt Nam (1965-1972), do ưu thế gần như áp đảo của không quân Mỹ nên các đơn vị phòng không Việt Nam phải thực hiện chiến thuật cơ động và nghi binh cho tên lửa phòng không. Theo điều lệnh tác chiến của lực lượng phòng không Liên Xô (cũ), mỗi tiểu đoàn S-75 Dvina (kể cả loại S-75B Volkhov) đều cần từ 1 đến 2 trận địa dự bị trong phạm vi bán kính cơ động 5 đến 10 km. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, mỗi tiểu đoàn tên lửa phòng khống phải có từ 4 đến 6 trận địa dự bị ở phạm vi cơ động có thể lên đến hàng trăm km trên nhiều loại địa hình khác nhau. Sau mỗi trận đánh, toàn bộ khí tài được tháo dỡ, thu gom trong vòng chưa đến 1 giờ và được di chuyển ngay đến trận địa mới. Tại trận dịa cũ, dân quân tự vệ dựng lại bộ khí tài giả làm bằng tre và cót, được sơn phết giống như thật. Do Shrike có hiệu quả thấp, máy bay cường kích chi viện hỏa lực đã tập kích dữ dội vào các trận địa không người. Do đó, mặc dù có số lượng không lớn nhưng hầu hết các đơn vị của tên lửa phòng không Việt Nam vẫn tránh được những đòn đánh hủy diệt của không quân Hải quân Mỹ, bảo toàn được lực lượng
Trận không chiến 12 ngày đêm "Điện Biên Phủ trên không", Lực lượng tên lửa phòng không đã phối hợp sử dụng đài ra-đa K8-60 của pháo phòng không 57mm quét tập trung để xác định chính xác các tốp B-52 (không quân Mỹ không để ý tới tần số phát của đài ra-đa dạng này với chủ quan rằng chúng không có khả năng gây hại tới B-52) cung cấp thông tin cho đài radar dẫn bắn Fan Song E (radar điều khiển hỏa lực của tổ hợp SAM-2) để dẫn bắn trúng vào các tốp B-52 của địch khi tần số ra-đa của tổ hợp tên lửa SA -75 bị gây nhiễu nặng. Ngoài ra, đài radar Fan Song được trang bị hệ thống kính tiềm vọng TZK- tổ hợp PA-00 cung cấp thông tin đồng bộ với hệ thống quan sát bằng ra-đa (phương thức so kim) cho phép SA-75 khai hỏa vào mục tiêu trong điều kiện nhiễu nặng, không thể xác định được mục tiêu. Theo lời nhiều trắc thủ đã trực tiếp chiến đấu đánh B-52 trong chiến dịch 12 ngày đêm, tổ hợp PA-00 với tầm quan sát chỉ 12km, nhưng do không thể bị gây nhiễu (quan sát trực tiếp bằng mắt) đã đóng góp rất lớn vào việc tiêu diệt các máy bay ném bom chiến lược B-52 của Mỹ.
Hai ngày đầu tiên, lực lượng tên lửa phòng không Việt Nam chống lại 5 đợt tấn công ồ ạt của máy bay ném bom chiến lược. Trong hai đêm đó, hiệu quả tác chiến tương đối thấp, chỉ đạt 0,09, trong 4 máy bay B – 52 bị bắn rơi, trung bình tiêu hao là 19 tên lửa. Nhưng cũng nhờ những kinh nghiệm của 2 đêm tác chiến đầu tiên, lực lượng phòng không Việt Nam đã nâng cao hiệu suất phóng tên lửa lên đến 0,27, tỷ lệ tên lửa trên một máy bay B-52 rơi là 6,6.
Một đơn vị bị trúng tên lửa Shrike do trắc thủ đã phạm sai lầm khi sử dụng chế độ phát chủ động của radar SNR. Do quá bám mục tiêu, đã chiếu xạ B-52 đến 80s với cường độ phát xung rất cao. Thực hiện yêu cầu chiến thuật chống Shrike, chỉ bật phát chủ động trong 18 – 20s. nên các đơn vị tên lửa còn lại, hầu hết Shrike đều rơi cách trận địa từ 2-3 km.
Thống kê cho thấy, hiệu quả tác chiến cao trong môi trường nhiễu tổng hợp của đối phương rất mạnh cùng với những đợt tấn công khốc liệt các trận địa tên lửa của máy bay chiến thuật Mỹ đã khẳng định, tính năng kỹ chiến thuật của tổ hợp SA-75M Dvina rất tốt, các kíp trắc thủ tên lửa đã được huấn luyện thuần thục khai thác sử dụng triệt để mọi khả năng của radars, tên lửa đồng thời có kỹ năng tác chiến hoàn hảo, bình tĩnh dũng cảm và sáng tạo trong từng lần phóng tên lửa. Một đóng góp to lớn trong chiến dịch chống không kích đường không trong điều kiện tác chiến điện tử rất mạnh là khả năng cơ động và đảm bảo cơ sở vật chất, đạn tên lửa kịp thời trong trận đánh của các đơn vị hậu cần – kỹ thuật binh chủng.
Uncle Sam nếm đòn
Các lực lượng tên lửa bảo vệ Hà Nội đã chặn đứng 25 đợt tấn công ồ ạt của máy bay ném bom chiến lược và máy bay chiến thuật của đối phương. Tiến hành phóng đạn 181. Kết quả đã tiêu diệt 54 máy bay, trong đó có 31 В-52, 13 F-4, 10 А-6 và А-7. Với máy bay ném bom В-52 đã phóng 135 lần (74% tổng số tên lửa), tiêu hao 244 tên lửa. Hiệu suất chiến đấu đạt 0,23. Tiêu hao để diệt 1 máy bay B-52 là 7,9 tên lửa.
Có 46 lần phóng tên lửa tấn công tiêu diệt máy bay chiến đấu cấp chiến thuật và không quân hải quân (26% tổng số các lần phóng), tiêu hao 77 tên lửa , bắn rơi 23 máy bay. Hiệu quả tác chiến đạt 0,5 với tỷ lệ tiêu hao 3,3 tên lửa trên 1 máy bay.
Chiến dịch Linebacker II là một chiến dịch lớn chưa từng có trong các chiến dịch TCĐT mà quân đội Mỹ và các nước trên thế giới tiến hành. Mật độ trang thiết bị tác chiến điện tử cũng lớn nhất từ trước đến tận ngày nay. Hầu hết các lần phòng đạn đều phải tiến hành trong điều kiện nhiễu tổng hợp và dày đặc (chiếm 76%). Tổng kết chung hiệu quả tác chiến trong điều kiện gây nhiễu chế áp mật độ dày đặc là 0,47. Đây là hiệu quả tác chiến cao nhất trong sử dụng tên lửa phòng không đánh trả các cuộc tập kích đường không. Một cuộc tập kích số lượng lớn đã phải hủy bỏ nửa chừng do ngay từ khi bắt đầu trận đánh, số lượng máy bay đã bị tiêu diệt quá lớn. Hiệu suất tác chiến cao đối với máy bay cấp chiến thuật do điều kiện tác chiến tốt hơn, máy bay địch bay ở tầm thấp hơn tầm nhiễu thụ động, các đài gây nhiễu trên máy bay không nhiều, máy bay cơ động nhanh, phức tạp nên nhiễu chủ động không che chắn được mục tiêu. Trong 46 lần phóng tên lửa có tới 18 lần phóng tiêu diệt máy bay ở độ cao thấp (39%) dưới 1 km.
Chiến dịch “12 ngày đêm” trên bầu trời Hà Nội, nhìn từ góc độ kỹ chiến thuật có thể thây: vị thế của tác chiến điện tử nói chung, chế áp điện tử và chống chế áp điện tử nói riêng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chiến tranh hiện đại. Ngày từ thời điểm bắt đầu, các phi công B-52 Mỹ được thông báo cuộc không kích “như một cuộc dạo chơi trên bầu trời đêm Hà Nội” do sự quá tin của lực lượng Không quân Mỹ về năng lực tác chiến điện tử cũng như sự hiểu biết về hệ thống phòng không đối phương. Chủ quan đã dẫn đến một kết cục thảm bại bất ngờ. Nhưng cũng có thể khẳng định rằng, nếu TCĐT của không quân Mỹ mà yếu hơn thì thảm họa không thể đoán trước được. Từ những bài học về chế áp điện tử cho thấy, tác chiến điện tử không đơn thuần là cuộc đối đầu giữa công nghệ và công nghệ, đây là sự đối đầu giữa công nghệ hiện đại và ý chí, sự thông minh sáng tạo của con người. Bằng sự sáng tạo của mình, lực lượng Phòng không nói chung và phòng không tên lửa nói riêng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Chiến tranh hiện đại là cuộc chiến tranh điện tử công nghệ cao, ai không làm chủ được trong lĩnh vực công nghệ này, người đó chắc chắn thất bại. Năng lực tác chiến điện tử và phương tiện, khí tài chiến đấu phải được nâng cấp, hiện đại hóa, phát triển toàn diện trong các quân binh chủng. Số lượng và tính năng kỹ chiến thuật phải có đủ khả năng chống trả các cuộc tấn công điện tử ồ ạt quy mô lớn trong không gian điện từ. Điều đó đòi hỏi tăng cường rèn luyện lực lượng, nắm chắc và sử dụng thuần thục khí tài TCĐT hiện có trong tình huống điện từ trường phức tạp nhất, phải có được những hệ thống sản phẩm “nội địa” (tự thiết kế - sản xuất) nhằm đảm tính bảo mật cao nhất, đồng thời có thể phát huy thế mạnh ở cách đánh sở trường và kinh nghiệm chiến đấu để bảo vệ vững chắc thành đồng tổ quốc.
Theo Trịnh Thái Bằng
Tiền phong
|
12/08/2013
| |||
Việt Nam có đánh thắng chiến tranh công nghệ cao? (kỳ I)
Để tiến hành các cuộc chiến tranh chớp nhoáng, đối phương thường sử dụng các loại vũ khí trang bị có độ chính xác cao tiến công từ nhiều hướng từ đất liền, trên không, trên biển và dưới biển.
Tác chiến điện tử (TCĐT là tập hợp các hoạt động tác chiến theo mục tiêu, nhiệm vụ, vị trí và thời gian hoạt động của các đơn vị, phân đội thuộc lực lượng TCĐT nhằm mục đích phát hiện, làm rõ hệ thống điều hành tác chiến và các trang thiết bị điều hành tác chiến, tính năng kỹ chiến thuật hoạt động của các phương tiện hỏa lực đối phương (tên lửa, bom điều khiển), chiếm đoạt thông tin và quyền điều khiển, chế áp điện tử.
Đồng thời bảo vệ môi trường điện từ cho hệ thống và các phương tiện, khí tài điều khiển binh lực, vũ khí trang bị quân ta, chống chế áp điện tử và trinh sát điện tử của địch.
Các hình thức và phương pháp tiến hành trinh sát và gây nhiễu
Trong kế hoạch đảm bảo an ninh quốc phòng đồng thời sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xâm hại chủ quyền, lợi ích của quốc gia, ngăn chặn xung đột và chiến tranh, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị quân sự và khoa học công nghệ, các cơ quan lãnh đạo quốc phòng các nước có sự quan tâm rất lớn đến các hoạt động trinh sát điện tử. Các nguyên tắc tiến hành trinh sát điện tử trong giai đoạn ngày nay bao gồm: Trinh sát toàn cầu, có trọng tâm – trọng điểm; Liên tục tiến hành các hoạt động trinh sát; Sử dụng tổng hợp tất cả các loại hình và các phương tiện khí tái trình sát; Luôn luôn liên kết phối hợp với các cơ quan trinh sát của các nước bạn.
Các loại hình trinh sát điện tử:
1- Theo các phân loại các tổ hợp khí tài trinh sát: Trinh sát điện tử; trinh sát quang điện tử; trinh sát thủy âm; trinh sát siêu âm; trinh sát địa chấn; trinh sát phóng xạ; trinh sát hóa học; trinh sát từ trường.
2- Theo tính chất và mục đích sử dụng của các thông tin thu thập: chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học công nghệ; khí tượng; thủy văn môi trường, tài nguyên khoáng sản. Trong khuôn khổ bài viết này chỉ giới hạn trong lĩnh vực quân sự - quốc phòng.
3- Trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh, trinh sát điện tử có thể theo nhiệm vụ: Chiến lược quân sự; trinh sát điện tử cấp chiến dịch và trinh sát điện tử cấp chiến thuật.
4- Theo những kênh thu thập thông tin: Tình báo trinh sát; Sử dụng kỹ thuật công nghệ; Lực lượng trinh sát quân sự; Các nguồn thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
5- Theo các phương tiện mang trang thiết bị, khí tài trinh sát điện tử: Vũ trụ; hàng không; Mặt đất; trên biển và dưới biển.
Mối đe dọa lớn nhất đối với hệ thống thông tin quân đội là hệ thống thông tin và điều khiển học sóng radio trên mọi dải tần số và hệ thống thông tin kỹ thuật số truyền tín hiệu vô tuyến. Tất cả các hệ thống thông tin và hệ thống kỹ thuật số vô tuyến cấu thành lên mạng lưới điều hành quân đội và điều hành tác chiến trong chiến tranh hiện đại. Các phương tiện và khí tài trinh sát cũng tập trung khai thác chủ yếu các nguồn thông tin đã nêu. Các nguồn thông tin và mạng lưới thông tin hữu tuyến thông thường cần có biện pháp thâm nhập và các trang thiết bị đặc biệt.
Gây nhiễu điện tử chủ động – sóng điện từ gây nhiễu
Sóng nhiễu điện từ trường là các loại sóng điện từ trường trên các tần số tín hiệu không mang các thông tin hữu ích. Các sóng nhiễu điện từ trường bóp méo và che chặn các thông tin hữu ích, gây khó khăn cho việc xử lý thông tin, làm gia tăng các lỗi và sai lệch các thông tin được truyền đi theo các kênh truyền thông radio.
Nguồn phát sóng nhiễu điện từ trường có thể là tự nhiên “từ bầu khí quyển trái đất, bão tuyết, bức xạ nhiệt trái đất và bức xạ nhiệt mặt trời). Sóng nhiễu điện từ cũng có thế phát xuất từ các nguồn gốc nhân tạo như (công nghiệp, các trạm điện năng hoặc các trạm có chức năng khác nhau..). sóng nhiễu nhân tạo có thể được tạo ra có chủ ý và không có chủ ý, theo hình thức tạo thành có thể là: chủ động, xuất phát từ các đài trạm nguồn đặc biệt phát sóng nhiễu điện từ hoặc thụ động, xuất hiện những xung phản xạ từ các nguồn phát sóng radio định hướng đập vào vật gây nhiễu (các băng dây kim loại) hoặc các vật thể, vật chất trong môi trường.
Đài gây nhiễu chủ động SPN – 30M.
Các sóng gây nhiễu có mục đích có thể phân loại thành: định hướng, ngăn chặn, quét và lướt. Các sóng gây nhiễu định hướng thường chiếm các dải tần số hẹp, không vượt quá 2 – 3 lần dải tần số mà đầu thu tín hiệu nhận hiệu quả nhất, sóng nhiễu ngăn chặn là sóng nhiễu được phát bao trùm toàn bộ phổ băng tần rộng, tần số được phát cao phổ tần số đầu thu của đối phương từ hàng chục cho đến hàng trăm lần. Phát sóng gây nhiễu dạng quét được tiến hành trong một dải tần số rất rộng, trên cả khu vực cần phải gây nhiễu và không cần phải gây nhiếu. Phát sóng gây nhiễu dạng lướt được hình thành trong quá quá trình chỉnh tần số phát trong một khoảng tần số hẹp trên một dải tần số rất rộng.
Theo tính chất thời gian, nhiễu có thể được phát liên tục hoặc phát theo các chùm xung có công suất rất lớn, theo tính chất điều tiết phát xung có thể phát sóng gây nhiễu không điều tiết hoặc phát sóng gây nhiễu có điều tiết về biên độ, tần số và pha có thể theo quy luật hoặc sóng gây nhiễu được điều tiết một cách hoàn toàn ngẫu nhiên.
Gây nhiễu điện từ thụ động – phản xạ xung radio
Gây nhiễu thụ động bằng các xung phản xạ điện từ trường – âm thanh là kết quả của các sóng điện từ radar – siêu âm (sonar) khi gặp các vật chất phản xạ lại (môi trường, khói, các tấm phản xạ hoặc các hạt các băng dây kim loại có tính chất phản xạ hoặc tán xạ ngược) các sóng tán xạ hoặc phản xạ radars – siêu âm sẽ tạo lên môi trường nhiễu loạn tín hiệu. Nhiễu phản xạ thụ động chỉ có hiệu quả với các đầu thu tin hiệu sóng radar – sonar ở chế độ phát chủ động.
Gây nhiễu thụ động chống tên lửa trên biển.
Các vật liệu phản xạ có thể là bất cứ vật liệu nào có tính phản xạ điện từ trường, có thông số kỹ thuật điện từ trường khác với môi trường xung quanh. Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã sử dụng các băng dây kim loại lưỡng cực có tính phản xạ rất cao để tạo thành các đám mây nhiễu thụ động. Đối với các phương tiện có đầu dẫn radar – siêu âm, các cường quốc nước ngoài đã sử dụng các đầu đạn mang các chất cháy có thể tạo ra các đám khói mù bức xạ nhiệt trên diện rộng, hoặc sử dụng các đầu đạn gây nhiễu thụ động bằng các sợi băng lưỡng cực nhằm che phủ mục tiêu.
Sử dụng các vật liệu phản xạ có thể tạo ra các vật thể phản xạ radar xung quanh các mục tiêu bảo vệ, các khối phản xạ thường có hình lập phương hoặc có cạnh góc vuông, có tác dụng phản xạ ngược sóng radio. Một hệ thống các khối phản xạ thụ động có thể hoàn toàn che kín mục tiêu trước các đầu đạn tự dẫn bằng radar chủ động. Với các khối phản xạ này, có thể che chắn hoặc mô phỏng trên màn hình radar các mục tiêu như cầu, khu công nghiệp hoặc các mục tiêu cố định khác nhau. Để chống lại các đầu tự dẫn radar – hồng ngoại, công nghệ quân sự còn sử dụng một thiết bị nữa là kính phản xạ Lyneberga có chức năng phản xạ ngược các sóng điện từ trường phát xung chủ động.
Sơ đồ nguyên lý quả cầu kính phản xạ sóng điện từ Lyneberga.
Một trong những giải pháp được hình thành từ thời chiến tranh Việt Nam đến nay vẫn được duy trì và phát triển mạnh là các anten radar phản xạ ngược lại các nguồn phát sóng radars chủ động.
Song hành cùng với các trang thiết bị, khí tài chế áp điện tử, kinh nghiệm cuộc chiến tranh đường không trên bầu trời Hà Nội đã làm xuất hiện hàng loạt những khí tài mồi bẫy các đầu đạn tự dẫn radars – hồng ngoại và các trang thiết bị nghi binh. Những bộ khí tài này có thể phát ra các nguồn tín hiệu hồng ngoại, sóng radio hoặc sóng radio – điện từ trường của radar. Một số các loại khí tài nghi binh có khả năng phát xung radar chủ động tương tự như radars chiến đấu hoặc có thể cơ động hành tiến trong đội hình.
Các phương tiện chiến đấu hiện đại như chiến hạm, xe tăng, xe bộ binh cơ giới, các phương tiện bay đều được lắp đặt các thiết bị tạo mồi bẫy hồng ngoại, các vũ khí tên lửa chống hạm, tên lửa phòng không được trang bị các thiết bị giả lập mục tiêu quang điện tử - radar. Các bộ khí tài giả lập cũng được lắp đặt trên các chiến hạm quân sự và các mục tiêu kinh tế dân sự quan trọng.
Tổ hợp nghi binh S-300.
Nhằm vô hiệu hóa hệ thống định vị vệ tinh và dẫn đường quán tính, các nhà khoa học quân sự Belarus đã chế tạo các thiết bị ứng dụng nhằm mục đích gây nhiễu các tín hiệu từ vệ tinh. Các bộ khí tài này có tên là Optima–3 và Tuman–2. Hai bộ khí tài này có thiết kế rất đơn giản, gọn nhẹ và tiện dụng, có thể lắp đặt trên mọi phương tiện khác nhau và có tầm gây nhiễu xa đến 130 km. Bộ thiết bị này đã được Iran sử dụng để gây nhiễu hệ thống GPS của máy bay trinh sát UAV RQ -170 hiện đại nhất của Mỹ và bắt sống chiếc máy bay này.
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ điện tử - truyền thông và thông tin, số lượng các phương tiện, khí tài, trang bị hiện đại phát triển rất mạnh với những tính năng kỹ chiến thuật của các đài, trạm thu phát thay đổi rất ngẫu nhiên. Hầu như mỗi nước khi phát triển hệ thống điều hành tác chiến, điều khiển hỏa lực và thông tin liên lạc đều đưa ra những thông số kỹ chiến thuật phù hợp với riêng mình, có khả năng lọc được nhiễu trong điều kiện tác chiến phức tạp của điện từ trường. Chính vì vậy các bộ khí tài tác chiến điện tử, gây nhiễu thông thường phải có công suất lớn, có dải tần số hoạt động rất rộng, các tính năng kỹ chiến thuật của các đài phát gây nhiễu cũng chứa nội hàm biến đổi ngẫu nhiên các tính năng kỹ thuật của sóng gây nhiễu, hình thức và phương pháp cũng hoàn toàn tính theo biến số và quy luật ngẫu nhiên.
Ngoài ra, cần phải tính đến đối với các siêu cường có khả năng phát triển các trang thiết bị điện tử mạnh như Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Nga, số lượng các thiết bị điện tử và khí tài TCĐT tăng gấp đôi trong vòng từ 3 – 5 năm. Thông thường, xu hướng phát triển và hoàn thiện trang thiết bị điện tử thông tin liên lạc có độ nhạy độ ổn định cao trong một số nhóm tần số ổn định, phát triển các thiết bị điều biến thông tin liên lạc hiện đại có khả năng tự động hóa cao hoặc các thiết bị phi điều biến một cách ngẫu nhiên, cho phép co hẹp lại phổ tín hiệu truyền phát và tăng cường khả năng chống nhiễu, hoàn thiện và số hóa (digital) chế độ điều khiển tần số phát. Phát triển các hệ thống radars với không gian thu phát mở rộng và lực chọn phân cực đầu thu.
Những phát triển về công nghệ buộc các loại trang thiết bị TCĐT phải hoàn thiện cả về công nghệ, tăng cường về công suất và hoàn thiện phương pháp gây nhiễu đối phương, số hóa hệ thống các đài phát gây nhiễu và tăng cường các hình thức, các phương thức gây nhiễu chủ động hoặc thụ động.
Hệ thống phòng thủ TCĐT và đồng bộ hóa hệ thống tác chiến điện tử - yêu cầu bức thiết của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Kinh nghiệm từ các cuộc chiến tranh hiện đại trong giai đoạn gần đây cho thấy, để thực hiện các cuộc chiến tranh chớp nhoáng, các cuộc xung đột khu vực, đối phương thường sử dụng các loại vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh có độ chính xác cao như tên lửa hành trình – có tính năng tương tự hoặc mạnh hơn tên lửa Tomahawk, bom có điều khiển (các loại bom như GBU-31 JDAM), các loại tên lửa có điều khiển tấn công các mục tiêu trên biển và trên mặt đất như AGM-84E SLAM, hoặc các loại tên lửa phóng từ tàu ngầm UGM Tomahawk với số lượng rất lớn, từ vài trăm cho đến hàng nghìn đầu đạn trong mỗi đợt tập kích.
Các đòn tiến công có thể diễn ra từ nhiều hướng, nhiều chiều khác nhau từ đất liền, trên không, trên biển và dưới biển. Hầu hết các loại vũ khí đều được trang bị các thiết bị điều khiển học, bao gồm các hệ thống: dẫn đường quán tính, hệ thống nhận biết địa hình đường bay, hệ thống định vị vệ tinh, hệ thống theo dõi và nhận dạng mục tiêu quang điện tử. Các mục tiêu cần tấn công đã được xác định tọa độ, hình ảnh nhận diện, các mục tiêu quan trọng như các phương tiện hỏa lực trên biển, trên đất liền (chiến hạm, các trạm đài radars, hệ thống tên lửa phòng không, chống tàu, đạn đạo, các đơn vị chiến đấu và các sở chỉ huy, đồng thời với các mục tiêu kinh tế chính trị quan trọng, các mục tiêu về truyền thông, thông tin, thậm chí các các mục tiêu dân sự như các khu chung cư, tòa nhà cao tầng …) cũng được xác định rõ ràng.
Các đòn tấn công hỏa lực ban đầu với số lượng rất lớn – hàng nghìn đầu đạn có độ chính xác cao các loại thường được tiến hành với mục đích đánh quỵ tiềm năng quốc phòng của đối phương ngay từ giai đoạn đầu tiên, tiêu diệt và vô hiệu hóa lực lượng phòng không – không quân, phá hủy các phương tiện truyền thông đại chúng và phong tỏa bầu trời, mặt biển của đối tượng tác chiến.
Trước, trong quá trình giáng đòn tấn công quy mô lớn, có độ chính xác và sức hủy diệt cao, đối phương thường tiến hành các hoạt động tình báo, trinh sát mục tiêu rất kỹ lưỡng, đồng bộ hóa các kết quả trinh sát – tình báo từ trên vũ trụ, trên không, trên biển, và dưới biển. Song hành cùng với các hoạt động chỉ thị dẫn đường mục tiêu là hoạt động TCĐT trên quy mô lớn với số lượng và công nghệ áp đảo nhằm hoàn toàn chế áp khả năng phản ứng của đối phương.
Để tổ quốc không bị bất ngờ
Những bài học kinh nghiệm trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ từ năm 1964 đến 1973 cho thấy. Trinh sát điện tử đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phòng thủ đất nước. Trong suốt giai đoạn quân đội Mỹ phong tỏa Vịnh Bắc Bộ, các đài radars trinh sát đường không của Việt Nam với sự chi viện thông tin của lực lượng trinh sát và cảnh báo sớm hạm đội Thái Bình Dương Liên Xô đã theo dõi chặt chẽ mọi hoạt động của lực lượng không quân – hải quân Mỹ trên Vịnh Bắc bộ, căn cứ không quân Guam và căn cứ không quân Utapao ở Thái Lan, những hoạt động tác chiến hiệu quả đã đem lại thắng lợi rất lớn trên bầu trời và vùng biển Miền Bắc.
Ngày nay, đất nước đã phát triển, đã có nhiều phương tiện, trang thiết bị khí tài trinh sát được trang bị cho lực lượng trinh sát – tình báo điện tử. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và không để bị bất ngờ. Công tác trinh sát điện tử cần được phát triển lên một tầm cao mới. Trong giai đoạn hiện nay, các lực lượng vũ trang các trang thiết bị trinh sát điện tử đã phát triển vượt bậc. Để có thể theo dõi, quản lý bầu trời và không gian biển. Cần kết hợp các hệ thống quản lý điện tử bầu trời vào mặt nước trong một thể thống nhất.
Các phương tiện trinh sát điện tử thường xuyên bao gồm các đài radar thụ động lớp Kolchuga, Vega, Tamara của Cộng hòa Séc, đài radar trinh sát điện tử Radar phòng không RV-01/Vostock-E; Valeria và các loại đài radar, các trạm sonar quân sự hoặc lưỡng dụng thông thường khác. Đây là những hệ thống radars trinh sát điện từ đã được thử thách qua nhiều thời kỳ phát triển, đáp ứng được yêu cầu tác chiến của chiến tranh hiện đại.
Do vị trí vô cùng quan trọng của biển trong điều kiện hiện nay, khi tình hình trên biển luôn có những biến động bất ngờ, có sự hiện diện quân sự của nhiều lực lượng hải quân của các cường quốc, cần xây dựng một hệ thống trinh sát trên biển và hải đảo. Truyền thống bảo vệ tổ quốc của dân tộc Việt Nam luôn lấy sức mạnh toàn dân, lấy lực lượng vũ trang nhân dân 3 thứ quân làm nòng cốt. Do đó, nhiệm vụ trinh sát tình báo trên biển sẽ là nhiệm vụ của toàn dân, trong đó, lực lượng hải quân cần có những phương tiện trinh sát hiện đại.
Đó là các tàu trinh sát điện tử đa nhiệm, được trang bị các loại phương tiện và khí tài hiện đại có khả năng trinh sát điện tử trên không, trên biển và dưới biển. Song song cùng với việc xây dựng đội tàu trinh sát điện tử đa nhiệm, việc phát triển các máy bay không người lái các kích thước với các nhiệm vụ trinh sát điện tử cũng là một xu hướng phát triển mạnh mẽ và phù hợp với khả năng khoa học công nghệ trong nước, kết hợp tốt với các máy bay trinh sát và tuần biển của lực lượng cảnh sát biển hình thành nòng cốt của lực lượng TCĐT trên biển lớn.
Radar phòng không RV-01/Vostock-E.
Đài radar trinh sát điện tử Valeria.
Hệ thống các trạm radar trên hải đảo, trên bờ biển kết hợp với các tàu trinh sát điện tử trên biển lớn, các hạm đội tàu chiến đấu, lực lượng cảnh sát biển, lực lượng máy bay trinh sát tuần biển và máy bay không người lái được kết nối với một trung tâm chỉ huy điều hành các hoạt động tác chiến điện tử kỹ thuật số hoạt động ngày đêm hình thành một hệ thống tác chiến điện tử hiện đại, đáp ứng yêu cầu tình báo – trinh sát tình huống. Thống kê số liệu, đánh giá và nhận định tình hình và đặc điểm của không gian phòng thủ biển và bờ biển, từ đó đưa ra những đề xuất định hướng nhằm tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu, ngăn chặn khả năng xảy ra xung đột và chiến tranh, đồng thời đáp ứng yêu cầu chiến tranh hiện đại.
(còn nữa)
Theo Trịnh Thái Bằng
Tiền phong
[Thư đã được cắt bớt] Xem toàn bộ thư
|
12/08/2013
| |||
---------- Thư đã chuyển tiếp ----------
Từ: pham huu duan <phamhuuduan@gmail.com>
Ngày: 17:20 Ngày 12 tháng 8 năm 2013
Chủ đề: Re: tác chiến điện tử
Đến: pham huu duan <phamhuuduan@gmail.com>
Từ: pham huu duan <phamhuuduan@gmail.com>
Ngày: 17:20 Ngày 12 tháng 8 năm 2013
Chủ đề: Re: tác chiến điện tử
Đến: pham huu duan <phamhuuduan@gmail.com>
[Thư đã được cắt bớt] Xem toàn bộ thư
|
13/08/2013
| |||
3 đội quân Việt Nam và chiến tranh phi đối xứng (II)
Kẻ thù có thể sử dụng công nghệ siêu hiện đại với những đòn tấn công lớn cả về quy mô lẫn số lượng thì mọi cuộc chiến tranh đều có thể kết thúc bằng một “Điện Biên Phủ” mới ở Việt Nam.
Ba đội quân phòng thủ
Sức mạnh thật sự của hệ thống tác chiến điện tử trong tương lai không nằm của các phương tiện TCĐT của quân đội và cảnh sát biển, nó nằm trong sự phát triển lực lượng tác chiến điện tử toàn dân, do mọi thành phần kinh tế, nghiên cứu khoa học kết hợp với lực lượng vũ trang tạo thành. Để thực hiện được một mạng lưới trinh sát điện tử dày đặc, là tai mắt của hệ thống phòng thủ đất nước, cần có những hệ thống trang thiết bị trinh sát điện tử gọn nhẹ, có thể chỉ là những đầu thu tín hiệu đa dụng được lắp đặt trong các hệ thống radar dẫn đường, hệ thống đài vô tuyến điện và điện thoại, các camera quan sát trên biển, các thiết bị phao trinh sát thủy âm trên tàu, thuyền đánh cá, nghiên cứu biển, các tàu du lịch và các tàu tuần biển của bộ đội biên phòng.
Như vậy, hệ thống TSĐT của nền quốc phòng toàn dân sẽ là: Cơ quan chỉ huy, điều hành trinh sát điện tử cấp cao nhất (Bộ TTM, cơ quan tham mưu quân chủng và lực lượng), cơ quan tham mưu cấp quân khu, cơ quan tham mưu các địa phương, các đơn vị trinh sát điện tử cấp quân binh chủng, quân khu, quân đoàn, các đơn vị trinh sát điện tử địa phương và các tổ chức đơn vị trinh sát điện tử của lực lượng dân quân tự vệ bờ biển và biển được đồng bộ hóa, nhất thể hóa trên nền tảng của hệ thống quản lý, thu thập và xử lý thông tin kỹ thuật số, trinh sát điện tử đa phương tiện, liên kết phối hợp thống nhất với từng cấp, từng mức độ thu thập và xử lý thông tin, từ các hiện tượng đến các sự kiện. Đảm bảo tác chiến liên tục, trong cả thời bìnhvà thời chiến.
Với một chương trình huấn luyện nâng cao của lực lượng dân quân tự vệ biển, lực lượng bán vũ trang như hải quan, biên phòng, cảnh sát biển về các hoạt động trinh sát điện tử. Đơn giản là bật hoặc tắt, bảo quản các trang thiết bị và đảm bảo thông tin liên lạc. Khu vực phòng thủ đất nước sẽ có được một hệ thống trinh sát điện tử canh trời biển ngày đêm. Với sự phối hợp chặt chẽ của lực lượng TSĐT 3 thứ quân
Tàu tác chiến điện tử Ural 7 SSV -33.
Để có thể kiểm soát, trinh sát và thu thập được một cơ sở dữ liệu của tất cả các phương tiện hoạt động trên không, trên biển và dưới biển, cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu về các phương tiện quân sự hoạt động trên không gian biển, từ đó có thể xác định được các hiểm họa và nguy cơ, cũng như có được những căn cứ để xây dựng một hệ thống cảnh báo sớm. Hệ thống nằm trong sự quản lý và điều hành của Bộ tổng tham mưu, bộ tham mưu lực lượng Hải quân và kết nối với tất cả các đầu thu tín hiệu trên mọi phương tiện trinh sát và TCĐT, thông qua hệ thống nhận biết mục tiêu và xử lý kỹ thuật số. Trở thành các chuẩn (templete) phục vụ cho mục đích tác chiến sau này.
Khi tình huống xảy ra căng thẳng có thể dẫn đến xung đột quân sự và chiến tranh khu vực. Mạng lưới trinh sát điện tử sẽ nhanh chóng được chuyển trạng thái chiến đấu, các phương tiện trinh sát thời bình sẽ chuyển thành các phương tiện trinh sát thời chiến theo kế hoạch phòng thủ khu vực và phòng thủ đất nước trong thời gian ngắn nhất.
Sức mạnh tác chiến phi đối xứng
Từ sau chiến tranh Việt Nam, các cường quốc quân sự thế giới đã thay đổi hoàn toàn mô hình chiến tranh, tính từ cuối thế kỷ 20 sang đầu thế kỷ 21, mô hình tiến hành một cuộc chiến tranh “dồn nén thời gian” đã được hình thành trên cả lý luận và thực tiễn với sự tham gia trên quy mô lớn các loại vũ khí trang bị công nghệ cao, mà mũi nhọn là tên lửa hành trình đa tầm, bom liệng có điều khiển quang điện tử và máy bay không người lái.
Sự kết hợp giữa của hệ thống tác chiến tiến công bao gồm TCĐT và vũ khí có độ chính xác cao (VKCX) là nòng cốt của các hoạt động tác chiến nhằm đánh quỵ tiềm lực quốc phòng của đối phương, phá hủy hệ thống chỉ huy, điều hành tác chiến và hệ thống phòng không, chống tàu. So sánh với các loại vũ khí khác tính từ sau chiến tranh ở chiến trường Nam Tư, hệ thống vũ khí chính xác và TCĐT có những ưu điểm mà không có hệ thống vũ khí trang bị nào trước đây có được. Thứ nhất: hệ thống VKCX và TCĐT giảm thiểu đến tối đa khả năng tác chiến tiếp xúc với đối phương. Từ đó giảm thiểu tổn thất các phương tiện mang và binh lực những vẫn đạt được mục đích đặt ra. Thứ hai: khả năng vô tận của các trang thiết bị, khí tài chế áp điện tử chủ động trong việc phát hiện mục tiêu và tầm xa các hoạt động chế áp của khí tài, khi sử dụng các phương pháp tìm kiếm và dẫn đường chủ động.
Hiện nay, các cường quốc quân sự đã chế tạo và áp dụng thử thành công các bộ khí tài chế áp điện tử, có khả năng phá hủy hoàn toàn các hoạt động nội hàm của các phương tiện TCĐT đối phương, các chương trình phần mềm điều hành tác chiến và các trang thiết bị điện tử thông thường (bom viba, các bộ khí tài phát xung radio định hướng).
Từ những nhận định về VKCX và TCĐT trong một hệ thống chiến đấu tấn công. Có thể nhận thấy, để có thể giành thắng lợi trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ Quốc. Các lực lượng vũ trang QĐND Việt Nam phải có những phương án, xây dựng những khả năng, tăng cường vũ khí trang bị và phát huy nghệ thuật tác chiến sở trường.
Đặc điểm của TCĐT trên chiến trường Việt Nam giai đoạn hiện này là tác chiến phòng ngự tấn công, cơ động linh hoạt và sử dụng triệt để lực lượng vũ trang 3 thứ quân. Với tiềm lực kinh tế - quốc phòng không cao và tiềm năng công nghệ - công nghiệp quốc phòng. Thông thường sẽ là phương án phòng ngự và tiến hành chiến tranh phi đối xứng.
Mục đích của hệ thống chiến tranh điện tử phi đối xứng là nhằm vô hiệu hóa các loại VKCX của đối phương đi kèm với việc vô hiệu hóa vũ khí TCĐT của đối phương. Do đó, trang thiết bị, khí tài tác chiến điện tử mà nòng cốt sẽ là các phương tiện chế áp điện tử thụ động kết hợp với các phương tiện TCĐT chủ động nhằm tiêu diệt các loại vũ khí VKCX vượt qua khỏi hệ thống phòng ngự điện tử.
Hệ thống TCĐT phi đối xứng: Đó là các hệ thống gây nhiễu thụ động bằng các phương tiện cơ sở vật chất sẵn có trong khả năng nghiên cứu và chế tạo, hình thành các khu vực tác chiến nhiễu loạn điện từ trường, nhằm vô hiệu hóa khả năng tự dẫn của vũ khí đối phương. Các loại trang thiết bị gây nhiễu thụ động tạo xung phản xạ bảo vệ mục tiêu. Các trang thiết bị nhằm vô hiệu hóa khả năng định vị vệ tinh của hệ thống (GPS, Glonass hay Bắc Đẩu). Các hệ thống này kết hợp với hỏa lực phòng không của các khu vực phòng thủ và hỏa lực phòng không của chiến tranh nhân dân tạo thành một thế trận phòng ngự dày đặc ngăn chặn khả năng sử dụng vũ khí VKCX và các đòn tấn công TCĐT của đối phương.
Nghiên cứu các phương tiện VKCX cho thấy. Các tên lửa hành trình hiện nay mà điển hình là tên lửa hành trình Tomahawk cấp chiến thuật có tầm tấn công từ khoảng cách 500 km đến mục tiêu, tầm bay hành trình trên mặt biển từ 5 -10 m, tầm bay trên địa hình từ 30 m – 120 m, có khả năng bay theo các quỹ đạo phức tạp do lập trình đường bay dựa trên cơ sở dẫn đường quán tính, so ảnh scaner địa hình và hệ thống định vị vệ tinh. Các loại phương tiện mang khác đều có tính năng tương đương như vậy.
Phương pháp tiến công của VKCX cũng tương tự như nhau, sử dụng các đầu tự dẫn quang - ảnh nhiệt kết hợp với đầu tự dẫn radars, một số các loại bom, tên lửa có đầu tự dẫn phản xạ laser hoặc tự dẫn hồng ngoại. Hầu hết các loại đạn có điều khiển đều có thể tấn công tầm xa, từ khoảng cách 80 – 130 km.
Như vậy, trên cơ sở các thông số tính năng kỹ chiến thuật của các loại đạn có điều khiển với tầm bắn xa. Để bảo vệ được các mục tiêu quan trọng trong hệ thống phòng thủ đất nước, hệ thống phòng ngự TCĐT được chia thành 4 lớp phòng thủ trong hệ thống phòng thủ chung của đất nước và phòng thủ khu vực: Hệ thống phòng thủ tầm xa, hệ thống phòng trung, hệ thống phòng thủ tầm gần và hệ thống phòng thủ mục tiêu.
Sơ đồ tác chiến điện tử phi đối xứng.
Do các đòn tấn công từ xuất phát từ hướng biển và đường bờ biển nước ta kéo dài suốt từ Bắc tới Nam là 3.260 km, các khu vực mục tiêu quan trọng đều nằm ven biển. Do đó tuyến phòng thủ tầm xa phải có tầm tác chiến lớn hơn 120 km tính từ mép biển. Tuyến phòng thủ điện tử tầm xa do hệ thống các thiết bị gây nhiễu dẫn đường vệ tinh GPS như “Tyman – 2” “Optima -3” đảm nhiệm kết hợp với các đài gây nhiễu tầm xa "Pelena-1"ở khu vực xung yếu, nơi có nhiều khả năng quỹ đạo đường bay của các tên lửa hành trình và máy bay không người lái tiếp cận bờ biển vào đất liền. Tuyến phòng thủ tầm xa có tác dụng gây nhiễu và ngăn chặn hệ thống dẫn đường, điều khiển VKCX trên đường bay đến mục tiêu.
Thiết bị gây nhiễu GPS Optima -3.
Thiết bị gây nhiễu GPS Tuman – 2.
Đài gây nhiễu chủ động tầm xa Pelena-1.
Đài gây nhiễu chủ động tầm xa Pelena-1.
Tuyền phòng thủ tầm trung được tính từ khoảng cách 40 – 50 km so với khu vực mục tiêu trọng yếu cần bảo vệ. Đây là tuyến phòng thủ được tổ chức xen kẽ giữa hệ thống gây nhiễu thụ động bằng các băng dây kim loại lưỡng cực, các loại hạt có khả năng gây nhiễu kết hợp với các trận địa phòng không và các đài chế áp điện tử bảo vệ mục tiêu như Liman (chế áp hệ thống thông tin trên không), Lotoc (chế áp hệ thống liên lạc viễn thông) và các đài gây nhiễu hệ thống dẫn đường vệ tinh GPS.
Kinh nghiệm của chiến tranh phòng không Việt Nam cho thấy, những đám mây nhiễu lưỡng cực gây rất nhiều khó khăn trong việc xác định mục tiêu của các đài radar điều khiển hỏa lực chủ động. Vật liệu gây nhiễu điện tử thụ động ngày nay có thể gây nhiễu cả hệ thống radars dẫn đường và hệ thống quang – điện tử xác định tọa độ mục tiêu. Thông thường tuyến phòng thủ tầm trung thường được bố trí thành các khu vực trận địa tác chiến điện tử, kết hợp giữa các khí tài, phương tiện TCĐT với các trận địa tên lửa, pháo binh phòng không các cỡ nòng được điều khiển hỏa lực bằng hệ thống radars kỹ thuật số nhằm giảm thiểu tối đa số lượng đầu đạn tấn công của đối phương.
Đài chế áp điện tử Liman.
Đài chế áp liên lạc vệ tinh định hướng Lotoc.
Tuyến phòng thủ tầm gần là tuyến phòng thủ nằm trong tầm hỏa lực tiêu diệt mục tiêu của các phương tiện phòng không bảo vệ mục tiêu như tên lửa tầm thấp, pháo phòng không các cỡ nòng như tổ hợp Shilka..trên khoảng cách xa đến 30km so với khu vực mục tiêu. Hệ thống TCĐT bao gồm các tổ hợp gây nhiễu bảo vệ các cụm mục tiêu như tổ hợp "Diabazol", các đài gây nhiễu bảo vệ mục tiêu 1L269 Krasuha-2, CPN-4, CPN -30M hoặc các hệ thống trinh sát và TCĐT của các đài gây nhiễu CPN -2, CPN-4.
Tổ hợp tác chiến điện tử đa năng - 1L269 Krasuha-2.
Hệ thống chế áp điện tử chủ động SPN – 2 và SPN - 4.
Tuyến phòng thủ điện tử bảo vệ mục tiêu. Đó là hệ thống các trang thiết bị TCĐT bảo vệ mục tiêu đó khỏi các đòn tấn công của VKCX, tên lửa chống radar và các đòn tấn công của các phương tiện tác chiến điện tử khác của đối phương. Đây là hệ thống phòng thủ quan trọng nhất và cũng là hệ thống đảm bảo an toàn cao nhất trước những đòn công kích hủy diệt của kẻ thù. Hệ thống phòng thủ điện tử bảo vệ mục tiêu tùy theo tính chất mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ, tính năng kỹ chiến thuật và khả năng tấn công của đối phương để thực hiện.
Nhằm bảo vệ các mục tiêu có tính cố định, có kích thước lớp và hình khối (cầu, bến cảng, các tòa nhà lớn, các công trình xây dựng) sẽ hình thành tuyến phòng thủ tầm trung bảo vệ khu vực mục tiêu, tầm gần bảo vệ mục tiêu và tuyến phòng thủ điện tử bảo vệ mục tiêu. Đối với các mục tiêu khác như trận địa, các phương tiện tác chiến có thể cơ động phân tán hoặc ẩn nấp (các hệ thống tên lửa đạn đạo, hệ thống tên lửa chống tàu, hệ thống tên lửa phòng không, ….) sẽ tổ chức liên kết phối hợp với hệ thống phòng thủ tầm trung và xây dựng hệ thống phòng thủ điện tử mục tiêu theo yêu cầu tác chiến.
Đối với các phương tiện tác chiến có sức cơ động cao như các chiến hạm, các đơn vị xe tăng – thiết giáp của các đơn vị binh chủng hợp thành, trong điều lệnh tác chiến đã được biên chế các loại vũ khí, phương tiện tác chiến điện tử. Với các mục tiêu quan trọng khác, hệ thống tác chiến điện tử bảo vệ mục tiêu thường có: các bộ khí tài nghi binh tạo mục tiêu giả (bao gồm cả mục tiêu giả bằng vật liệu hoặc bằng khí tài quang – điện tử) đánh lừa địch, các bộ khí tài ngụy trang tạo màn khói mù chống các đầu đạn tự dẫn bằng hồng ngoại, laser, các bộ khí tài phản xạ gây nhiễu thụ động kiểu khối góc lập phương hoặc quả cầu phản xạ Lyneberga và các đài gây nhiễu chủ động CPN -30M hoặc tổ hợp gây nhiễu chủ động 1L269 Krasuha-2.
Với các trận địa chiến đấu có địa bàn rộng lớn như trận địa tên lửa, trận địa pháo bờ biển, tên lửa phòng thủ bở biển hải đảo hoặc các mục tiêu quan trọng khác, sẽ sử dụng các tổ hợp gây nhiễu trên không gian rộng lớn hơn như Tổ hợp “Diabazol”. Ngoài các phương tiện gây nhiễu điện tử, ngụy tranh, nghi binh. Để bảo đảm an toàn tối đa trong hệ thống còn được biên chế các tổ hợp hỏa lực tầm gần như tên lửa vác vai Igla, xe thiết giáp phòng không Shika hoặc các phương tiện module phòng không tầm cận gần như các tổ hợp "Pantsirt-C1" Palma.
Tổ hợp đài chế áp điện tử bảo vệ mục tiêu “Diabazol”.
Trong chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc, các hệ thống tác chiến hiện đại là thành phần chủ chốt của hệ thống phòng thủ đất nước. Sự sống còn và khả năng chiến đấu được bảo đảm và tăng cường bởi hệ thống phòng thủ toàn dân, trong đó có lực lượng dân quân tự vệ và quần chúng nhân dân. Chiến tranh hiện đại đòi hỏi lực lượng vũ trang thứ 3 hùng hậu này cũng cần được hiểu biết sâu sắc về chiến tranh điện tử phi đối xứng.
Kinh nghiệm chống chiến tranh đường không của Miền Bắc trước đây cho thấy, hệ thống phòng không nhân dân đóng vai trò quan trọng trong chiến đấu với các loại vũ khí công nghệ cao. Thế trận phòng không tầm thấp là sức mạnh ưu việt nhất và cũng đem lại hiệu quả tác chiến cao nhất. Trong tương lai, các lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên cần được tăng cường các trang thiết bị hiện đại của TCĐT như các thiết bị gây nhiễu GPS, huấn luyện thành thạo các phương án gây nhiễu thụ động nhằm tăng cường khả năng bảo vệ các mục tiêu quan trọng, xây dựng các khu vực trú ẩn và ngụy trang chống trinh sát hồng ngoại, thiết kế và chế tạo các bộ khí tài nghi binh, đánh lừa địch đồng thời đồng bộ hóa công tác chỉ huy, điều hành tác chiến, liên kết phối hợp với các lực lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương trong TCĐT.
Với một hệ thống phòng ngự TCĐT và chống VKCX được triển khai sâu rộng trên cả nước. Mặc dù kẻ thù có thể sử dụng mọi thủ đoạn, mọi biện pháp tác chiến, ứng dụng công nghệ siêu hiện đại với những đòn tấn công lớn cả về quy mô lẫn số lượng thì mọi cuộc chiến tranh công nghệ cao đều có thể kết thúc bằng một “Điện Biên Phủ” mới ở Việt Nam.
Theo Trịnh Thái Bằng
Tiền Phong
Tiền Phong
0 nhận xét: